Ngày 15/11/2005, Văn hóa Cồng chiêng
Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại. Để có được sự kiện này là một quá
trình lao động công phu, bền bỉ của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, trong
đó nổi bật là những đóng góp của GS.TSKH.Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn
nghệ dân gian (VNDG) Việt Nam. Ở đây, ông và cộng sự đã tiếp cận văn
hóa sử thi và cồng chiêng theo phương pháp đa ngành với hơn 2.000 trang
ghi chép cùng rất nhiều phim, ảnh, ghi âm tư liệu lễ hội, tập tục. Nhân
tròn 10 năm kỷ niệm sự kiện quan trọng trên, xin giới thiệu chân dung
cuộc đời nhà nghiên cứu văn hóa lão thành đó.
Người lữ hành không mỏi
Có thể gọi GS. Tô Ngọc Thanh là người lữ hành không mỏi. Gần 60 năm
nay ông cặm cụi độc hành qua bao “cánh rừng” VNDG. Ví VNDG là cánh rừng,
bởi cái gốc hoang dã, tự phát như rừng, ẩn chứa nhiều của ngon vật lạ
như rừng và cũng mong manh như rừng; tốt tươi, truyền đời đấy nếu biết
giữ gìn, cũng dễ bị hủy hoại nếu vô tình hay hữu ý tàn phá rừng.
Ông là con cả của họa sĩ danh tiếng Tô Ngọc Vân (1906-1954). Hồi Tô
Ngọc Thanh còn nhỏ, nhà danh họa cũng muốn con trai theo nghề mình.
Nhưng rồi ông bắt gặp mấy lần cậu bé buổi chiều đứng hàng giờ ngơ ngẩn
trước cửa ngôi nhà số 38 Quán Sứ (Hà Nội) để nghe bạn ông là nhạc sĩ
Nguyễn Xuân Khoát đàn; ông còn biết chuyện con nhịn ăn sáng nhiều bữa để
gom được 15 xu mua một cây sáo 6 lỗ và thường ra công viên thổi lén,
ông hiểu niềm say mê nghệ thuật của con đã ngả sang hướng khác. Thi vào
lớp sáng tác của Trường trung cấp Âm nhạc khóa 1 (1956-1959), có thể Tô
Ngọc Thanh cũng sẽ trở thành nhạc sĩ sáng tác như các bạn cùng lớp về
sau đều thành danh như: Hoàng Việt, Hồng Đăng, Hoàng Hiệp, Ngô Huỳnh,
Hồng Thao, Vĩnh Cát... Song, anh lại chọn một hướng đi lúc đó rất ít
người quan tâm là nghiên cứu âm nhạc dân gian. Tốt nghiệp, “tiếng gọi
nơi hoang dã” đã sớm đưa anh lên núi rừng Tây Bắc. Một chuyện như huyền
thoại đã xảy ra. Ngày đó, Tây Bắc còn nhiều hổ, do vậy có quy định bất
thành văn trong bộ đội và dân công, đi đường rừng phải đông người và
tránh buổi chiều tà. Anh cán bộ văn hóa trẻ Tô Ngọc Thanh biết điều đó,
nhưng lần ấy đang dở công việc tìm hiểu, ghi chép một lễ hội của người
Xá Châu Yên (Cũng cần nói thêm, khúc dân ca Xá nổi tiếng Mưa rơi - Mưa
rơi cho cây tốt tươi/Búp chen lá trên cành...là do Tô Ngọc Thanh sưu
tầm, ký nhạc trong thời gian này). Sự sốt sắng yêu nghề đã làm anh quên
cả nguy hiểm, cứ một mình rảo bước bên bìa rừng. Vừa qua một khúc quanh,
ngẩng lên bỗng toàn thân anh sởn gai ốc: cách chừng dăm mét, chú hổ vằn
to bằng con bò mộng đang nháp, miệng há đỏ lòm, hàm răng nhọn hoắt, may
mà lúc đó mắt nhắm tịt nên nó không nhìn thấy một con người nhỏ bé đang
run rẩy cách có đúng một tầm vồ. Bỗng trong khoảnh khắc đứng tim ấy,
một khúc gỗ mục to trên cây cao tự dưng rớt “bụp” xuống mặt đường ngay
trước đầu chúa sơn lâm. Phản xạ bản năng làm con hổ giật mình, quật đuôi
nhảy tót vào bụi rậm. Tại sao khúc gỗ mục lại rơi đúng lúc, đúng chỗ
như vậy? Điều này có thể giải thích đơn giản: một sự ngẫu nhiên! Vào đầu
năm 1977, khi Tô Ngọc Thanh đang làm nghiên cứu sinh ở Nhạc viện Sofia,
Bungari. Hôm ấy ông cùng thầy là GS. TS. Stoijan Diujev tản bộ ở ngoại ô
Sofia, gặp một bà già Digan. Dân du mục Digan từ xa xưa đã nổi tiếng về
bói toán, bà ta bỗng nhiên chỉ vào Tô Ngọc Thanh nói ngay: “Anh bạn tóc
đen. Chuyện đã xảy ra cách đây 15 năm rồi, chính cha anh đã cứu anh
thoát chết!”. Họa sĩ Tô Ngọc Vân là một trong những liệt sĩ cuối cùng
của giai đoạn chống Pháp, ông bị trúng bom tại đèo Lũng Lô khi chiến
dịch Điện Biên Phủ vừa kết thúc. Làm sao một người đàn bà xa lạ từ
phương trời xa lắc kia, lại nói trúng một sự việc mà chỉ riêng ông biết?
Khoa học hiện đại vẫn chưa thể giải thích nổi...
Ta hãy trở lại với sự nghiệp VNDG của nhân vật chính. Gần 10 năm “3
cùng” với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, đã cho Tô Ngọc Thanh một vốn
hiểu biết đa dạng, phong phú không chỉ trong âm nhạc truyền thống, mà cả
các lĩnh vực khác như: tập tục, lễ hội, ngôn ngữ, chữ viết, ẩm thực,
trang phục... Một phần của vốn hiểu biết này được đúc kết trong luận văn
“Những vấn đề về phương pháp nghiên cứu âm nhạc dân gian”, ông bảo vệ
thành công học vị phó tiến sĩ âm nhạc (nay là tiến sĩ) năm 1978. Và 9
năm sau ông bảo vệ xuất sắc học vị tiến sĩ (nay là TSKH) về âm nhạc
truyền thống. Bắt đầu những chuyến điền dã không ngừng nghỉ khắp Bắc -
Trung - Nam. Sau thời kỳ làm Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật, đến
khi lãnh đạo Hội VNDG Việt Nam ông càng đi nhiều, tập hợp được một đội
ngũ đông đảo những người tâm huyết với văn hóa truyền thống. Sau Tây
Bắc, Tây Nguyên là nơi ông trở lại nhiều lần. Ở đây ông và cộng sự đã
tiếp cận theo phương pháp đa ngành với hơn 2.000 trang ghi chép cùng rất
nhiều phim, ảnh, ghi âm tư liệu lễ hội, tập tục của các dân tộc thiểu
số Tây Nguyên. Ông còn đến với những tộc người sống như thuở sơ khai,
một học trò của ông sau chuyến điền dã đã kể câu chuyện này. Thầy trò
đến làng Đăk Mế, thuộc tỉnh Kon Tum, nơi dân tộc Bờ Râu hiện chỉ còn
khoảng 300 người. Họ rất quý khách, muốn kết nạp giáo sư vào cộng đồng.
Ông coi đó là một cơ may và vui vẻ thực hiện “thủ tục”, xắn quần lội
xuống suối bắt 3 con cá nhỏ đem nướng. Rồi bà cụ già nhất làng, da mặt
sạm đen, nhăn nheo cầm lấy cá bỏ vào mồm, tóp tép nhai, rồi bỏ ra đưa
khách. “Công dân danh dự” của làng đã nhai tiếp “ngon lành”. Sau giáo sư
giải thích cho học trò: Đây là hành động mang ý nghĩa nhân văn ở xã hội
mẫu hệ, giống như bà mẹ Kinh đồng bằng mớm cơm cho con nhỏ. Nhà nghiên
cứu Bùi Trọng Hiền là người đã trực tiếp ghi lại thang âm cồng chiêng
Tây Nguyên trong bộ hồ sơ đưa không gian cồng chiêng trở thành Di sản
văn hóa thế giới, nói rằng: “Tôi luôn kính trọng GS. Tô Ngọc Thanh bởi
tầm nhìn, sự hiểu biết về di sản văn hóa dân tộc và chính ông đã chỉ bảo
cho tôi cách thức ghi thang âm cồng chiêng sao cho chuẩn mực nhất”.
Đi nhiều, hòa nhập sâu với cộng đồng, có lẽ GS. Tô Ngọc Thanh là
người giữ “kỷ lục” ở nước ta về biết nhiều “nội ngữ”. Ông thành thạo
trong giao tiếp các tiếng: Mường, Thái, Mông, Lào, Xá, Khơ Mú, Tày,
Nùng, Dao, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai (còn ngoại ngữ, ngoài tiếng Pháp, ông tự
học tiếng Anh, có thể viết sách hoặc thuyết trình ở các hội nghị quốc
tế, hiện ông đang học thêm tiếng Đức). Đến giờ, trước tác của ông về
nhiều lĩnh vực VNDG được nhiều đồng nghiệp thừa nhận là đạt chuẩn mực
khoa học cao, có thể kể tên các tác phẩm tiêu biểu như: Âm nhạc dân gian
Thái Tây Bắc (1969); Âm nhạc dân gian Mường (1971); Fonclo Bahna
(1988); Nhạc cụ các dân tộc thiểu số Việt Nam (1995)...
Nỗi niềm với kho di sản
Hội VNDG Việt Nam hiện có hơn 1.200 hội viên, trải rộng trong 84 chi
hội thuộc 63 tỉnh, thành. Hằng năm, giáo sư Chủ tịch Hội đều mở lớp tập
huấn cho hội viên về kỹ năng nghiên cứu, sưu tầm. Vào năm đầu tiên của
thế kỷ XXI, Hội đã đưa ra kế hoạch mang tên Tầm nhìn 2010, phát động
cuộc điều tra di sản trên quy mô cả nước, theo phương châm Chủ tịch Hội
đề ra “phải sờ tận tay di sản”. Nghề thủ công truyền thống đục đá, chạm
bạc của người Bố Y (còn gọi là Chủng Chá, Tu Dí) ở Hà Giang qua điều tra
được biết chỉ sót lại ở một làng và chỉ còn một người nắm giữ di sản là
cụ Ngũ Khởi Phối, năm nay đã 78 tuổi. Điệu hát dô ở khu vực thờ thánh
Tản Viên, núi Ba Vì cũng chỉ một nghệ nhân đã 94 tuổi biết được làn
điệu. Cách truyền nghề “khẩn cấp” do Hội VNDG đưa ra: chọn 10 người già
trong xã để nghệ nhân truyền lại. Hội cấp kinh phí cho các bà, tuy chẳng
là bao, song các bà phấn khởi, đi học hát còn được tiền. Năm sau cụ
nghệ nhân qua đời, 10 bà đã thạo hát dô, lại chọn các cháu gái, trai
13-15 tuổi để truyền tiếp... Qua cuộc tổng kiểm kê như thế mới thấy
“cánh rừng” VNDG Việt Nam đang trong tình trạng báo động, nếu không có
biện pháp kịp thời để “cứu nguy”, thì chỉ một thời gian ngắn nữa, “rừng”
sẽ... biến mất!
Một ngày đầu năm 2007, GS. Tô Ngọc Thanh được đồng chí Trương Tấn
Sang lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư mời lên làm
việc. Chả là trước đó, đồng chí đã đọc trên báo Lao Động có bài phỏng
vấn giáo sư Chủ tịch Hội VNDG: “Hàng nghìn công trình VNDG đang nằm
trong kho của Hội. Hội không có kinh phí để văn bản hóa các công trình
thuộc về di sản”. Sau cuộc gặp với đồng chí Trương Tấn Sang, GS. Tô Ngọc
Thanh còn được bố trí gặp toàn thể Ban Bí thư để trình bày vấn đề cấp
thiết ấy. Chính nỗi niềm đau đáu lo cho kho tàng VNDG đang bị mai một,
cùng những kiến nghị hợp lý hợp tình đã có sức thuyết phục cao (Trong
chuyện này, giáo sư kể với người viết là, có lúc ông nói bằng tiếng Tày
về lễ hội, tập tục người Tày, Nùng với đồng chí Nông Đức Mạnh; rồi quay
sang đồng chí Tòng Thị Phóng, nói bằng tiếng Thái...). Các vị lãnh đạo
đã hoàn toàn nhất trí với đề xuất của ông. Sau đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã ký Dự án Công bố và phổ biến tài sản văn hóa VNDG các dân tộc
Việt Nam, xuất bản 2000 đầu sách trong vòng 10 năm, Nhà nước đầu tư theo
2 đợt, tổng số tiền ngót nghét 300 tỷ đồng. Sau này có vốn về rồi, ông
là Trưởng ban dự án đã tuân thủ ngặt chế độ chi tiêu tài chính, cần nói
thêm, mấy chục năm là Chủ tịch Hội, ông không nhận một đồng lương nào.
Kho di sản hiện có 5.000 bản thảo nghiên cứu, sưu tầm, đã chọn được
2.000 công trình để in ấn. Từ 2008 đến nay, Hội VNDG Việt Nam đã phát
hành được hơn một nửa số đầu sách của dự án, trung bình mỗi cuốn 300
trang có bản tóm tắt tiếng Anh, được gửi tới tất cả các thư viện trong
toàn quốc, đặc biệt còn gửi cho các cụm biên phòng nơi thường xuyên tiếp
xúc với các dân tộc thiểu số. Dự án sẽ kết thúc vào năm 2016. Chính
việc văn bản hóa các di sản thời gian qua, đã cứu được 182 di sản đang
trên bờ vực của sự mai một.
Trong Đại hội lần thứ VII (2015-2020) Hội VNDG Việt Nam vừa diễn ra,
GS. Tô Ngọc Thanh tái đắc cử Chủ tịch Hội và đây là lần thứ 6, tức 30
năm liền ông đảm nhiệm cương vị này. Một trường hợp hy hữu! Điều may mắn
là, hiện GS. Tô Ngọc Thanh tuy tuổi cao nhưng còn mẫn tiệp, dẻo dai,
hầu như không tháng nào ông không về một vùng di sản nào đó. Và ông cũng
đang tập trung trí lực viết một cuốn chuyên khảo lớn nhất của đời mình:
VNDG Việt Nam qua các thời đại, dự tính khoảng gần 1.000 trang in.
Theo: suckhoedoisong.vn