Tre
nứa là tên gọi chung của một nhóm các loài (trong đó có trúc đen) thuộc
phân họ Tre (Bambusoideae) của họ Hòa Thảo (Poaceae). Nước ta hiện có
tới 126 loài tre nứa khác nhau, chiếm 1/4 số loài tre nứa toàn thế giới.
Trải
qua nhiều thế hệ, tre nứa đã gắn liền với cuộc sống của người dân Việt
Nam từ đồng bằng đến trung du, miền núi. Có ít nhất 30 loại công việc
phải sử dụng tre nứa. Điển hình như làm hàng thủ công, mỹ nghệ, vật liệu
xây dựng, nguyên liệu giấy sợi, thực phẩm... Trong ngành sản xuất giấy
của nước ta, 30% nguyên liệu có nguồn gốc từ tre nứa. Tre, trúc cũng là
nguyên liệu để sản xuất một số nhạc cụ mang đậm nét dân tộc như: Sáo
trúc, khèn, đàn tơ rưng... Đặc biệt, nhiều loài tre nứa còn được dùng
làm cây cảnh nhờ hình dáng đẹp, lạ mắt, độc đáo. Cho đến nay, ở nước ta
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nhóm tre nứa thuộc các lĩnh vực
như: Phân loại học, sinh thái học, giá trị sử dụng..., tuy nhiên, cây
trúc đen là một trong số những loài tre nứa còn ít được biết đến.
|
Cây trúc đen là nguồn gen quý cần được bảo tồn. Ảnh: Hương Lê
|
Trúc
đen còn gọi là trúc tím, tử trúc hay là hời chín seo (theo tiếng Hán)
có tên khoa học là Phyllostachys nigra (Lodd.ex Loud.) Munro. Trúc đen
là cây đa tác dụng, có thể làm thực phẩm (măng tươi, măng khô), làm
thuốc (thân và lá), nhưng chức năng quan trọng nhất của trúc đen là làm
cảnh và làm hàng mỹ nghệ. Theo Sách đỏ Việt Nam (năm 2007) và Danh lục
thực vật Việt Nam (tập III, 2005) thì trúc đen chỉ có ở tỉnh Hà Giang và
khu vực Nam Bộ. Gần đây, đã phát hiện được trúc đen tại Sa Pa (Lào Cai)
phân bố ở hai xã Bản Khoang và Tả Van thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia
Hoàng Liên. Trúc đen tập trung ở độ cao từ 1.300m trở lên, thường ở gần
khe suối, nơi có độ ẩm cao.
Trong
số hơn 100 loài tre nứa của nước ta, tính độc đáo của trúc đen chính là
màu sắc của thân cây. Cây trúc đen trưởng thành có chiều cao khoảng
6-7m, đường kính thân từ 2-4cm. Điểm đặc biệt của loài trúc này là cây
non thân có màu tím đen, xanh lục nhạt hoặc vàng nâu. Cây trưởng thành,
toàn bộ thân có màu tím đến tím đen, bóng. Vì vậy, trúc đen được đánh
giá là một trong những loài cây cảnh độc đáo. Thân trúc đen sau khi khô
vẫn giữ được màu đen bóng nên dùng làm hàng mỹ nghệ, bàn ghế rất được
khách hàng ưa chuộng.
Trúc
đen ra măng vào tháng 2 và tháng 3 Âm lịch. Mặc dù có khu phân bố rộng,
nhưng diện tích ở các điểm phân bố thường không lớn, số lượng cá thể
tương đối ít, đặc biệt khi khai thác, người dân có thói quen lấy toàn bộ
măng dẫn đến hậu quả là trúc đen có diện tích ngày càng thu hẹp, thậm
chí đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Để bảo tồn nguồn gen quý này, các cơ
quan quản lý chuyên ngành, chính quyền địa phương cần nỗ lực vào cuộc,
tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, xử phạt; đồng thời chủ
động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức người dân, tránh triệt
hạ, khai thác, tận thu loài cây quý này. Về lâu dài, cần có biện pháp
nâng cao đời sống cho người dân, giảm áp lực vào việc khai thác măng,
thân và lá quá mức, kiên quyết giữ gìn, bảo tồn và phát triển bền vững
loài trúc đen.
Theo: qdnd.vn