|
Ông Tế cầm trên tay hai chiếc nón vừa hoàn thiện |
Chỉ còn các cụ già làm nón
Làng
Chuông trước kia được gọi là Trang Thời Trung thuộc xã Phượng Trung,
Thanh Oai, Hà Nội. Làng Chuông hiện tại gồm 8 thôn Tân Tiến, Tân Dân,
Tân Duệ, Quang Trung, Mã Triều, Trung Chính, Liên Tân và Sơn Tây, dân số
khoảng 15 nghìn dân. Nón làng Chuông vào thời những năm 90 nổi tiếng
không chỉ khắp kinh thành Thăng Long mà còn nức tiếng cả nước.
Tuy
nhiên, vì nhiều lý do nên chiếc nón không còn được thịnh hành như trước
đây, người trẻ trong làng ít ai muốn giữ lại nghề làm nón truyền thống
đã hơn nửa thế kỷ. Chính vì vậy mà du khách không khỏi ngạc nhiên khi
đến làng Chuông giờ đây xuất hiện thêm nghề làm lồng chim.
Dọc
các trục đường chính trong thôn Tân Dân, Tân Duệ, Tân Tiến giờ đây là
các gia đình trẻ làm lồng chim. Những chiếc lồng chim được để từ trong
nhà ra cửa. Một đặc điểm dễ dàng nhận thấy khi du khách qua các thôn ở
đây là có sự phân hóa rõ rệt về lực lượng lao động. Tại đây, những người
làm lồng chim là thanh niên và trẻ nhỏ; các cụ già ngồi một góc để cặm
cụi với những chiếc nón lá mong góp sức giữ lại chút nghề, để con cháu
mai sau biết về nghề nón lá đã từng tồn tại ở làng.
Ông
Nguyễn Văn Kim (79 tuổi, ở thôn Tân Duệ) cho biết, từ hơn hai năm nay,
do xuất hiện thêm nghề làm lồng chim nên lao động trẻ, thanh niên chuyển
sang nghề làm lồng chim để mưu sinh. Từ ngày chuyển sang nghề làm lồng
chim người dân trong làng có mức thu nhập khá ổn, trên 100.000
đồng/ngày, trong khi đó người làm nón lá chỉ thu nhập được trên 50.000 –
70.000 đồng người/ngày.
Thế
nên, tuy nghề làm nón vẫn còn nhưng chủ yếu dựa vào lực lượng người cao
tuổi. Bên cạnh đó cũng có lác đác vài ba cơ sở làm nón thủ công phục vụ
mục đích du lịch, xuất khẩu của người trẻ về làng lập nghiệp, muốn vươn
lên bằng nghề truyền thống. Các cơ sở này chủ yếu tìm mối làm ăn để
xuất sang châu Âu, một phần xuất lên trung tâm phố cổ để phục vụ cho nhu
cầu du lịch, bán cho bà con Việt kiều.
Anh
Lê Văn Đạt - nghệ nhân làm nón hơn 15 năm đã biết tận dụng thời thế
vươn lên, vừa giữ nghề cha ông truyền lại đồng thời vẫn phát triển nghề
mới, tạo thêm việc làm cho anh em trong gia đình. Nắm bắt được thời thế,
chàng trai đã quyết định mở xưởng làm ăn nhỏ thu hút một số lao động
thanh niên về làm lồng chim, tìm mối đưa lên phố bán cho dân chơi chim.
Bên
cạnh đó, anh Đạt cũng nhận thêm nghệ nhân làm nón có tay nghề về làm
nón lá truyền thống, tìm mối xuất lên phố cổ phục vụ nhu cầu du lịch.
Tuy chỉ là một xưởng nhỏ, mỗi ngày xuất ra trên chục cái nón lá, gần
trăm chiếc lồng chim nhưng đó cũng là một cách góp phần bảo tồn nghề
truyền thống ở đây.
|
Hương (8 tuổi) và Linh (6 tuổi) là hai trong số ít trẻ
muốn học làm nón truyền thống ở làng |
Ước mơ về một tương lai
Nón
lá làng Chuông dù trải qua nhiều biến cố nhưng vẫn nổi tiếng vì bền
đẹp. Bao đời nay, người làng Chuông luôn dựa vào nghề nón để sống và
cũng chính chiếc nón đã từng đưa làng trải qua nhiều khó khăn, thăng
trầm lịch sử. Vì vậy, lồng chim hay bất kỳ sản phẩm gì xét cho cùng cũng
chỉ là công cụ để người dân trong làng mưu sinh tạm thời.
Đến
một lúc nào đó, chiếc nón lá sẽ quay lại với người làng Chuông, giúp
người dân duy trì, phát triển cuộc sống như trước đây là mong muốn mà
ông Phạm Văn Tế cũng như các nghệ nhân cao tuổi trong làng đặt niềm tin,
quyết tâm làm nón, truyền nghề cho con cháu mai sau.
Sinh
ra ở và lớn lên ở làng nón trăm tuổi nên ông Phạm Trần Vinh đã biết cầm
kim khâu nón từ khi lên 7 tuổi. Đến tuổi nhập ngũ, ông Vinh vào chiến
trường nhưng ngày ngày vẫn nhớ về cách làm nón. Trở về từ chiến trường,
ông Vinh không cam chịu với cảnh nhìn người trẻ trong làng “đứa thì làm
lồng chim, đứa thì đi làm công nhân, đứa lên thành phố làm thuê”. Ông
Vinh cùng ông Tế bắt tay vào việc lên kế hoạch làm chiếc nón đúng chuẩn,
vận động người có tay nghề trong làng tiếp tục theo đuổi nghề truyền
thống, truyền nghề cho lũ trẻ mỗi khi rảnh rỗi.
Dù
mắt không còn tinh, đôi tay không còn khéo léo như trước nhưng những
người con làng Chuông như ông Tế, ông Vinh ngày ngày vẫn miệt mài ngồi
trước cửa cặm cụi làm nón. Say sưa kể về nghề cổ của làng, ông Vinh cho
biết, để tạo nên chiếc nón đẹp, đúng chuẩn, đúng kỹ thuật cần cẩn thận
đến từng chi tiết. Người làm phải có con mắt tinh tường để chọn ra những
lá đẹp, không bị rách hoặc quá nhàu nát. Trước khi đưa lá vào khuôn cần
là phẳng lá bằng cách miết trên lưỡi cày đã hâm nóng với độ nóng phù
hợp để lá mềm dẻo hơn, tránh nhàu nát…
Nghe
ông Vinh nói, mới thấu hiểu những giọt mồ hôi đã đổ cho mơ ước giữ
nghề. Bên cạnh đó, cánh cửa phần lớn thời gian là đóng im ỉm của không
gian trưng bày nón Việt ở trong làng mà thấy buồn…
Theo : baophapluat.vn