Toàn cảnh hình ảnh ngôi nhà cổ
Giếng cổ hàng trăm năm tuổi
Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc) là ngôi làng cổ gắn liền với sự
hình thành, hưng vong của kinh thành Tây Đô (tên gọi khác của Thành Nhà
Hồ) với hơn sáu trăm năm lịch sử vẫn lưu giữ trong mình những yếu tố
cấu thành nét văn hóa đặc trưng của các làng quê Việt, nhưng cũng chứa
đựng những nét riêng của một vùng đất từng là kinh đô của đất nước.
Giếng cổ làng Xuân Giai tọa lạc ở vị trí trung tâm của làng, ở phía Đông
của đình, cách Thành Nhà Hồ 300m về phía Đông Nam. Giếng có hình tròn,
kích thước miệng giếng là 2,4m, thành cao 1,1m, lòng giếng sâu 5 - 6m.
Giếng được xếp theo hình chữ công, so le nhau. Mạch được vít bằng chất
kết dính. Thành giếng được xây bằng gạch bìa giống như loại gạch được
phát hiện qua khai quật tại Thành Nhà Hồ, di tích đàn tế Nam Giao. Đây
là loại gạch có kích thước lớn, trung bình 50cm x 25cm x 9cm, trọng
lượng trung bình 15 - 20 kg.
Do được làm từ đất sét luyện kỹ, đem nung ở nhiệt độ cao nên trãi qua
hàng trăm gạch vẫn giữ được màu sắc hồng tươi, không bị thôi bột, biến
dạng. Điều đặc biệt, trên cạnh của nhiều viên gạch có in/khắc nhiều chữ
Hán - Nôm ghi tên địa danh đã sản xuất gạch. Hiện tại, Trung tâm Bảo tồn
Di sản Thành Nhà Hồ đã phát hiện và nghiên cứu được 5 dấu in/khắc tên
địa danh hành chính như: Đại An Quý (xã), Nhuế Hỏa, An (Yên) Lâm xã, Cổ
Đới xã, Cổ Lôi huyện Trần xá xã (thuộc huyện Thọ Xuân ngày nay)
Gạch bìa in dấu các địa danh hành chính ở cạnh ngang hoặc cạnh dọc; dấu
được in chìm vào gạch với chữ nổi hoặc chìm theo chiều dọc từ trên xuống
dưới. Chất liệu đất sét mịn lẫn rất nhiều hạt laterite to nhỏ khác
nhau, đất được làm khá mịn, không để lại dấu vết của kéo cắt đất; độ
nung cao, rất cứng, chắc và nặng, màu đỏ gạch hoặc xám nhạt.
Các cụ cao niên trong làng cho biết giếng có từ rất lâu đời và từ đời
nào cũng không ai biết rõ. Nhưng chắc chắn giếng đã có hàng trăm năm
tuổi, bởi vì các cụ già hiện nay trên tuổi 90 vẫn kể rằng, giếng có từ
trước đời cha, ông của các cụ. Tới những năm 1945 - 1946, đội du kích
làng Xuân Giai, khi đó vừa mới được thành lập, đã cùng dân làng cải tạo
lại giếng trên cơ sở giếng cũ, khi đào xuống đáy, mạch nước phun lên
cuồn cuộn, phải huy động cả làng múc nước, nhưng cũng không cạn hết nước
giếng.
Giếng làng Xuân Giai có tiếng mát trong và ngọt, đặc biệt dùng để pha
trà, ủ chè và nấu rượu rất thơm ngon, được nhân dân cả vùng ưa thích.
Các cụ già trong làng vẫn gọi, nước giếng làng là nước “đãi ngoại”, có
nghĩa là đối với khách vãng lai hoặc những người từ những nơi khác đến
định cư, dâu, rể của làng khi dùng nước giếng thì luôn mạnh khỏe, da dẻ
trở nên hồng hào, đẹp đẽ.
Trong những năm gần đây, có tục lúc giao thừa đến thắp một tuần nhang
cắm lên thành giếng, xin gánh một gánh, hay xô nước mang về nhà lấy lộc
đầu năm, với mong muốn cầu mong cho gia đình bình an, khỏe mạnh, mùa
màng tươi tốt. Hiện nay, giếng không còn được dân làng sử dụng nữa, các
hạng mục của giếng đều bị hư hại, xuống cấp, có nhiều vết nứt lớn trên
thành giếng. Sân lát gạch bị bong tróc và sụt lún. Trong lòng giếng cây
dại mọc tốt, cắm sâu rễ vào các kẽ gạch, rêu mốc phủ kín bề mặt.
Theo tiến sĩ Đỗ Quang Trọng- Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản Thành Nhà
Hồ cho biết: Về niên đại chính xác liên quan đến sự ra đời của giếng cổ
làng Xuân Giai cần có quá trình nghiên cứu, điều tra tư liệu. Nhưng có
thể khẳng định, việc nghiên cứu, bảo tồn giếng cổ hàng trăm năm tuổi tại
Di sản Thế giới Thành Nhà Hồ là tư liệu khẳng định và góp phần quan
trọng trong việc nghiên cứu, bảo tồn các làng cổ tại Di sản theo khuyến
nghị của UNESCO (đối với làng Xuân Giai, Tây Giai xã Vĩnh Tiến và Đông
Môn xã Vĩnh Long), góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu, bảo tồn
và phát huy giá trị Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ.
Ngôi nhà cổ và cây thị
Ngôi nhà cổ tọa lạc trên một khu đất thoáng rộng, ở vị trí trung tâm
làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, cách Thành Nhà Hồ khoảng 400m về phía Nam.
Ngôi nhà được ông Đề, một chức quan ở huyện dưới triều Nguyễn cho xây
dựng dựng năm thứ 7 đời vua Thành Thái (1895). Hiện nay chủ nhân của
ngôi nhà là ông Trần Tuấn Đạt, đời thứ 4 đang sinh sống. Ngôi nhà được
đánh giá là một trong những công trình mang nhiều giá trị về kiến trúc
nghệ thuật và lịch sử văn hóa.
Về kiến trúc, đây là ngôi nhà được thiết kế kiểu chữ nhất (-) gồm 5
gian, tường hồi bít đốc (3 gian ngoài và 2 gian buồng ở hai bên), diện
tích 100 m2. Bộ khung nhà (bộ vì) được làm bằng gỗ, liên kết theo kiểu
chồng rường kẻ chuyền. Hoành tải, rui bằng luồng. Các kẻ hiên được chạm
trổ tinh xảo. Cửa gỗ hình cánh bướm, sàn nhà lát bằng gạch bát, bậc tam
cấp làm bằng chất liệu đá xanh, trên mái lót ngói liệt trên lợp ngói
vẩy. Hệ thống cột cái và cột quân được đặt trên chân tảng bằng đá thấp.
Họa tiết trang trí trong ngôi nhà được trình bày hết sức tinh tế và hàm
chứa nhiều ý nghĩa, thể hiện sự khéo léo, tài tình của những nghệ nhân
thời Nguyễn. Đề tài trang trí lấy cảm hứng từ thiên nhiên, với bộ tứ quý
tùng trúc cúc mai làm chủ đạo. Kẻ bảy chạm khắc hoa cúc có hướng hóa
rồng trong thế chầu vào trong nhà. Về vật liệu dựng ngôi nhà này, ông
Đạt cho biết, nhà được kết cấu từ nhiều loại gỗ khác nhau và có sẵn tại
địa phương như lim, mít, xoan…
Trước đây, trong nhà có nhiều hoành phi, câu đối, sắc phong... Trải qua
thời gian và thăng trầm biến cố của lịch sử, nay chỉ còn lại một số Hán
tự ghi trên xiên hoa. Điều đặc biệt, toàn bộ phần tường của ngôi nhà
được xây bằng gạch bìa, kích thước 47 x 24 x 9 cm, giống gạch được khai
quật tại Thành Nhà Hồ, trong đó có rất nhiều viên có dấu in/khắc chữ
Hán tên các địa danh và một số tên chưa được xác định.
Khác với quan niệm truyền thống, khi xây dựng nhà cửa, thường chuộng
hướng Nam trong “tứ chính” Đông - Tây - Nam - Bắc. Nhưng đối với ngôi
nhà này, khi dựng lại chọn hướng Đông. Lý giải điều này, ông Đạt cho
biết “khi dựng nhà cửa ông bà trước đây xem xét rất kỹ, hướng Đông là
hướng mặt trời mọc, có ánh nắng sẽ xua tan sự tối tăm, vạn vật mới được
sinh trưởng, phát triển, cho nên nó tượng trưng cho sự sinh tồn, niềm hy
vọng, tiềm lực, sự hưng vượng, tiến triển và lý tưởng”. Trước nhà có
sân rộng rãi, không gian thoáng đãng, trước đây phía trước có nhiều đầm
hồ là nơi tụ khí rất tốt cho ngôi nhà.
Ngôi nhà là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện, không những có ý nghĩa đối với
làng, mà còn đối với quê hương, dân tộc. Trước năm 1945, vào những dịp
quan trọng, như trong nhà có người thi đỗ, đến tuổi khao lão hoặc mừng
chức lý trưởng, gia đình mở lễ khao vọng, mời các chức sắc và dân làng
đến tham dự. Trong lễ khao vọng, gia chủ cho mời các gánh hát chèo, hát
bội đến hát xướng góp vui, lại tổ chức những trò chơi tổ tôm, bài
điếm..., ăn uống có khi đến hai, ba ngày liền. Sau năm 1954, ngôi nhà
trở thành nơi sinh sống, chở che cho bao lớp cán bộ, chiến sĩ miền Nam
ra Bắc tập kết. Trong kháng chiến chống Mỹ, ngôi nhà vừa là nơi ở của bộ
đội, vừa trở thành kho đạn dược, vũ khí và che dấu xe vận tải vận
chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam.
Hiện nay, tại làng Xuân Giai, ngoài ngôi nhà của gia đình ông Đạt, còn
có một số ngôi nhà khác, có tuổi thọ hàng trăm năm, có giá trị kiến trúc
cao, nhưng do không đảm bảo tính họa tiết nên chưa được Nhà nước công
nhận.
Cũng như bao kiến trúc nhà cổ khác trong làng, hiện nay, nhà cổ của gia
đình ông Trần Tuấn Đạt đã và đang bị xuống cấp, nhiều hạng mục như
tường, hệ thống cột gỗ, vì kèo bị hư hỏng do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Vì vậy, việc bảo tồn nguyên trạng ngôi nhà là vấn đề
cần kíp. Để thực hiện được điều này, cần có sự chung tay, góp sức của
các cấp, các ngành và toàn xã hội nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát huy
những di sản của ông cha để lại.
Một tin vui mới đối với di sản Thành Nhà Hồ là vừa qua, ngày 12/2/2015,
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) đã có văn bản
chính thức thông báo hai cây thị cổ làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã được công nhận Cây Di sản Việt Nam. Đây là
hai cây thị đã trên 600 năm tuổi (tương truyền có từ thời Trần - Hồ)
được trồng trong khuôn viên ngôi chùa cổ trước đây, nằm cách Hào thành
phía Nam của Thành Nhà Hồ 30m. Cây có chu vi trên 10m, chiều cao trên
20m.
Hai cây Di sản nằm ở vị trí trung tâm làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến -
một làng cổ gắn liền với quá trình hình thành, hưng vong của vương triều
Hồ và Thành Nhà Hồ trong lịch sử dân tộc. Đây cũng là dấu tích còn sót
lại của một công trình tôn giáo có vai trò quan trọng phục vụ đời sống
tâm linh của người dân Tây Đô suốt nhiều thế kỷ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đây từng là nơi nghỉ ngơi, ẩn trú của xe cộ,
binh pháo của bộ đội trên đường hành quân vào chiến trường miền Nam. Là
nơi che chở cho dân làng trước bao trận bom đạn của giặc Mỹ cày xéo
trên mảnh đất quê hương. Có thể nói, những cây cổ thụ tại làng Xuân Giai
được công nhận là cây di sản của Việt Nam sẽ làm tôn thêm giá trị lịch
sử vốn có của nó, từ đó khơi dậy niềm tự hào của người dân địa phương,
để người dân có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, gìn giữ thiên
nhiên và môi trường quê hương, bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta.
Chi tiết nhà cổ
Cây thị
Giếng cổ
Theo : tienphong.vn