Thôn
Vĩnh Thịnh (còn gọi là thôn Kẻ Vành), vào những buổi chiều tối, một
hình ảnh dễ gặp là các bà, các mẹ cùng nhiều cháu nhỏ ngồi quây quần
trước cửa nhà. Mỗi người một việc, thoăn thoắt khâu, đan những chiếc nón
lá. Không quá cầu kỳ và tinh xảo, tuy nhiên, để tạo ra một chiếc nón
vẫn cần rất nhiều công sức. Thông thường, trẻ nhỏ và người già sẽ bóc
lá, người tuổi trung niên chẻ tre, quấn vòng. Còn phụ nữ - khéo tay hơn,
có nhiệm vụ lợp và khâu nón.
Vừa
đưa nôi ru cháu ngủ, bà Nguyễn Thị Bay (51 tuổi), ở xóm 2, vừa nhanh
tay khâu viền cho những chiếc nón lá. Trung bình mỗi ngày, bà Bay có thể
đan được 3 chiếc nón, trừ chi phí nguyên liệu, tiền công thu về khoảng
25.000 - 30.000 đồng. Lợi nhuận tuy không cao nhưng trong bối cảnh thu
nhập từ công việc đồng áng không nhiều, lại có phần bấp bênh, thì đan
nón đã trở thành “cứu cánh” giúp gia đình bà phần nào trang trải chi phí
sinh hoạt hàng ngày. Trưởng thôn Vĩnh Thịnh - Nguyễn Bá Ky cho biết, cả
thôn hiện có khoảng 800 hộ thì có tới 90% gia đình có người làm nón.
Đầu những năm 2000 được xem là giai đoạn cực thịnh của nghề làm nón thôn
Vĩnh Thịnh, nhiều gia đình phất lên nhanh chóng nhờ nghề này. Những
chiếc nón nghệ thuật, bộ nón 5 chiếc với đường kính từ 10 - 40cm được
khách du lịch rất ưa chuộng. Tuy nhiên, khoảng 10 năm trở lại đây, nghề
làm nón “mất giá”, thu nhập từ nghề giảm sút nhanh chóng. Hiện, phần lớn
người theo nghề là người già, trung niên, học sinh hoặc phụ nữ đang ở
thời kỳ chăm con nhỏ. Thanh niên và người có sức khỏe thường chọn buôn
bán hoặc đi làm thuê để có thu nhập cao hơn… Nón lá Vĩnh Thịnh chủ yếu
được bán cho tiểu thương đưa đi phân phối tại những khu chợ đầu mối.
Nhưng nhìn chung, đầu ra cho sản phẩm này hiện vẫn khá bấp bênh.
Ông Nguyễn Văn Hưng - Chủ tịch UBND xã Đại Áng cho biết, nghề làm nón lá
đã góp phần nâng cao thu nhập cho người dân các thôn Vĩnh Thịnh, Vĩnh
Trung. Tuy nhiên, nguồn thu này chưa cao. Người dân không thể “trông”
vào nghề đan nón để sống, mà thường chỉ tận dụng những khi nông nhàn,
rảnh rỗi cuối tuần để làm, kiếm thêm thu nhập. Xã cũng đưa việc giữ gìn
làng nghề như một phần trong định hướng, quy hoạch phát triển “làng du
lịch sinh thái - khoa bảng” trong những năm tới. Theo ông Hưng, để vực
dậy được làng nghề, rất cần lãnh đạo các cấp từ huyện đến TP quan tâm
đầu tư, có chính sách hỗ trợ thực hiện việc giữ nghề theo dạng bảo tồn.
Đồng thời, giới thiệu và quảng bá để nón lá Đại Áng trở thành một “sản
phẩm du lịch”, tiến tới có thể vươn ra nước ngoài theo đường tiểu ngạch
và chính ngạch như một số mặt hàng truyền thống ở các địa phương khác.
Được biết, năm 2013, Sở Công Thương Hà Nội đã có đề án về việc bảo tồn
và khôi phục 21 làng nghề truyền thống có nguy cơ thất truyền, trong đó
có làng nón lá Đại Áng. Tuy nhiên, theo lãnh đạo xã Đại Áng, đến nay, đề
án này vẫn chưa “đến” được với địa phương. Do đó, rất mong các cơ quan
chức năng quan tâm để đề án sớm được triển khai sâu rộng, góp phần bảo
tồn một làng nghề đang đứng trước nguy cơ bị mai một.
Theo : ktdt.vn