Kiến trúc làng cổ Cự Đà (Thanh Oai, Hà Nội) đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Ảnh: LÊ THẮNG
Cùng với tốc độ đô thị hóa của đất nước thời kỳ hiện đại, làng cổ
Việt Nam với những giá trị kiến trúc, văn hóa truyền thống đã và đang
bị phá vỡ, mai một từng ngày. Vấn đề bảo tồn trong sự phát triển không
hề giản đơn.
Nhộn nhịp làng hóa phố
Cách đây hơn 20 năm, với số dân khoảng hai triệu người, Hà Nội là một
tổng thể khá bình dị, hài hòa với hệ thống hồ ao, mặt nước đan xen;
các làng hoa, làng nghề truyền thống, khu vực trung tâm lác đác vài nhà
cao tầng, cấu trúc khu phố cổ, khu phố Pháp còn tương đối nguyên vẹn.
Là thủ đô, đô thị dẫn đầu cả nước về tốc độ phát triển, mục tiêu đặt ra
là tới năm 2015 Hà Nội phát triển thành thành phố công nghiệp theo
hướng hiện đại, là trung tâm hành chính, chính trị quốc gia, trung tâm
lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế
của cả nước. Những năm qua kiến trúc Hà Nội đã có nhiều thay đổi. Cùng
với việc cải tạo, mở rộng, xây dựng mới hệ thống giao thông, nhiều khu
công nghiệp, đô thị mới, công trình nhà ở và làm việc... mọc lên không
ngừng. Chính trong "cơn lốc" ấy, làng xã ở Hà Nội, nhất là làng ven đô
đang chịu sự biến động mạnh mẽ, sâu sắc. Khoảng gần chục năm trở lại
đây, những nơi này nhanh chóng "thay da đổi thịt". Nhiều ngôi làng nổi
tiếng của Hà Nội như Ðường Lâm, Cự Ðà, Tây Mỗ, Tả Thanh Oai... rơi vào
tình trạng nửa phố nửa quê. Xóm Cầu Bươu đầu làng Tả Thanh Oai, Thanh
Trì đã trở thành xóm dịch vụ với đủ loại nhà hàng, nhà nghỉ, quán
bi-da, tiệm tạp hóa, in-tơ-nét... Nhiều nhà cao tầng mầu sắc xen lẫn
những nếp nhà loang lổ rêu phong. Xe cộ chen chúc, tắc đường, bụi bặm.
Dân ở đây bán đất nên có tiền, đua nhau xây nhà chẳng theo một quy
chuẩn, kiến trúc nào, chủ yếu nhà cao tầng hình ống. Bên kia sông là
làng Cự Ðà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai có nghề làm tương truyền thống
hàng trăm năm. Chỉ trong khoảng ba năm, làng chỉ còn hơn nửa số nhà cổ,
những ngôi nhà trên dưới 300 năm tuổi đang lần lượt bị xóa sổ. Nhiều
ngôi nhà với kiến trúc Pháp độc đáo đã xuống cấp nặng nề nhưng người
dân không có tiền tu sửa, một phần do làm ăn buôn bán phát đạt, người
dân tự đập đi xây mới cho thời thượng.
Nhiều người cao tuổi và hộ gia đình trong làng bày tỏ nỗi buồn trước
tình trạng nhà cũ xuống cấp, muốn có tiền sửa cũng khó mà xây mới lại
càng không có điều kiện, đành bất lực ngồi nhìn không gian cũ bị phá
vỡ, làng cổ đang "biến mất" từng ngày. Còn làng Mơ, hay Kẻ Mơ, với sản
vật đặc trưng của Hoàng Mai và kinh thành Thăng Long là rượu mơ, rượu
cúc đã để thất truyền trong quá trình đô thị hóa. Là một làng ven đô
nay trở thành một phường thuộc thành phố, làng bị mất đi cảnh quan
thiên nhiên, cổ xưa, đất canh tác bị thu hẹp và triệt tiêu. Nhà cửa xây
theo phố sá, sinh hoạt theo tổ dân phố. Quá trình đô thị hóa nơi đây
diễn ra nhanh chóng, tự phát nên không có quy hoạch cụ thể dẫn đến thực
trạng phố không ra phố, làng không ra làng, đường làng tuy được đặt tên
phố nhưng vẫn là đường cũ bé nhỏ, ngoằn ngoèo, lộn xộn...
Sự xuống cấp, phai nhạt bản sắc của làng cổ có thể nhận thấy ngay từ
tổng thể cho đến sự biến đổi của những công trình kiến trúc, cảnh quan
hoặc nếp sinh hoạt văn hóa của người dân sở tại. Chiếc cổng, một yếu tố
"linh hồn" của làng cũng bị tác động khi thực tế có nhiều cổng làng bị
đập đi hoặc có nơi bỏ ra hàng tỷ đồng xây lại cổng mới to, rộng hơn,
sơn lòe loẹt, kiểu dáng kiến trúc na ná như nhau khiến cho cổng làng
trở thành những chiếc cổng chào vô cảm. Yếu tố vật chất và không gian
quan trọng của làng cổ là mặt nước cũng đã bị xóa mất nhiều, cụ thể như
các làng ven hồ Tây trước đây nằm trong hệ thống sông, hồ, ao chằng
chịt, song đến nay có sông không còn dấu vết, các ao đầm bị san lấp, lấn
chiếm hoặc ô nhiễm, tù đọng...
Nghiên cứu, khảo sát của Viện Bảo tồn di tích 10 năm trở lại đây cho
thấy, tốc độ thay đổi, mất mát của các làng cổ trên địa bàn Hà Nội diễn
ra khá nhanh, đặc biệt là trong ba năm gần đây. Nhiều ngôi làng chỉ ba
năm sau khi đoàn khảo sát quay lại đã gần như biến mất. Theo GS, TS
Phạm Ðình Việt (Trường ÐH Xây dựng Hà Nội), do sự biến đổi về phương
thức canh tác, lối sống... đã làm thay đổi cả vật chất và tinh thần của
các làng. Cũng bởi dân số tăng, nhiều gia đình phải chia nhỏ mảnh đất
cha ông để lại cho các con xây nhà ở riêng chứ không chung sống theo
kiểu gia đình ba, bốn thế hệ trong ngôi nhà truyền thống chật hẹp. Qua
đó, nhiều làng chỉ còn có ý nghĩa của cái tên vì trên thực tế nó đã thay
đổi rất nhiều như các làng Ngọc Hà, Nhật Tân... Phó Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội Trương Minh Tiến cho biết, hiện Hà Nội
có duy nhất làng cổ Ðường Lâm được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia, còn lại hơn 60 làng được đề xuất đưa vào danh mục
nghiên cứu lựa chọn công nhận là làng cổ, trong đó có những làng nổi
tiếng như Ðông Ngạc (Từ Liêm), Cự Ðà (Thanh Oai), Vân Từ (Phú Xuyên),
Bát Tràng (Gia Lâm), Ðại Áng (Thanh Trì)... Mỗi làng đều có những đặc
thù riêng, lưu giữ hình ảnh quá khứ đẹp đẽ và giá trị nhưng đang phải
chịu áp lực nhiều mặt về sự phát triển dân số, kinh tế, cơ cấu dân cư,
lối sống... Nguy cơ phá vỡ cấu trúc không gian làng truyền thống là rất
lớn, làm cho quỹ di sản văn hóa Hà Nội bị vơi cạn. Và để từ danh sách
đề xuất đến khi được công nhận đưa vào danh mục, có những biện pháp bảo
tồn còn là cả một chặng đường dài...
Bảo tồn theo hướng nào ?
Bảo tồn làng cổ phải từ quan niệm làng cổ là một di sản sống. Ðiều
này không chỉ xác định rõ mục tiêu bảo tồn, phát huy giá trị di sản, mà
còn giúp lựa chọn lối ứng xử thích hợp. Tại hội thảo Bảo tồn và phát
huy giá trị các làng cổ ở Hà Nội do Viện Bảo tồn di tích tổ chức mới
đây, một số ý kiến đã chú trọng vấn đề bảo tồn phải gắn liền với phát
triển; giữ gìn cái cũ giá trị không được ngăn cản cái mới văn minh,
tích cực; bảo tồn phải tôn trọng và gắn với lợi ích cộng đồng chủ thể
của làng cổ... Từ sự việc làng cổ Ðường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội), GS Hoàng
Ðạo Kính nêu vấn đề: Làng cổ Ðường Lâm mang bản chất di tích từ góc độ
bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, song nên nhận thức nó như là di sản,
một phức hợp cộng cư kiến trúc - cộng đồng lịch sử sống động. Nếu ứng
xử với làng cổ như với di tích sẽ làm nảy sinh nguy cơ biến làng thành
bảo tàng ngoài trời. Làng còn xác, mất hồn. Viện trưởng Viện Bảo tồn di
tích, KTS Lê Thành Vinh đồng quan điểm khi cho rằng, cuộc sống của
cộng đồng dân cư chính là một phần quan trọng của di tích. Nếu chỉ lo
giữ những ngôi nhà cổ và không gian kiến trúc truyền thống sẽ có một
tổng thể đẹp, nhưng được một ngôi làng "chết". Bảo tồn không phải là
"đóng băng" cái sẵn có. GS Hoàng Ðạo Kính nhấn mạnh: "Bảo tồn làng cổ
không có nghĩa là xếp hạng nó thành di tích. Hơn 4.000 di tích đã được
công nhận hiện nay đều đòi hỏi trùng tu, giá trị mỗi lần trùng tu cũng
phải từ 15 đến 20 tỷ đồng. Ngân sách lấy đâu ra? Kể cả những nước giàu
cũng không công nhận di tích nhiều như Việt Nam. Cuộc đua danh hiệu di
sản không những không bảo tồn được gì, mà còn khiến những cái thật sự
là di sản không được đầu tư, bảo tồn đến nơi đến chốn". Theo ông, nên
giảm bớt số lượng di tích bảo tồn để gìn giữ, duy trì những di tích
thật sự là tinh hoa.
Một điều cấp bách cần được đặt ra là, trước khi có được những đề án,
chương trình lâu dài, nên chăng Nhà nước và TP Hà Nội cần đầu tư xây
dựng các quy định và nghiêm khắc, kiên quyết trong việc xử lý những sai
phạm về xây dựng, bảo vệ hay trả lại cảnh quan không gian phù hợp cho
các công trình truyền thống, sự vật của làng cổ như hệ thống cổng làng,
đình, chùa, đền, miếu, cầu, quán, giếng nước, cây cổ thụ... Kể cả
những quy định và chế tài xử phạt trong hoạt động xây dựng vốn rất tự
do, bừa bãi lâu nay liên quan đến những khu vực được phép xây dựng về
chiều cao, kiểu dáng kiến trúc... để người dân có thể nâng cấp điều kiện
sống nhưng không được gây ảnh hưởng đến cảnh quan chung. Thời gian
qua, giới chuyên môn có rất nhiều ý tưởng, giải pháp, đề xuất về vấn đề
bảo tồn nhưng việc đón nhận, áp dụng, triển khai của chính quyền các
cấp, các sở, ngành chức năng vẫn chậm chạp, bất cập. Ðó là nguyên nhân
khiến làng cổ bị biến dạng, làm xấu, ô nhiễm nặng nề. Một khó khăn
trong việc bảo tồn hiện nay là do chưa đạt được sự đồng thuận của cộng
đồng, người dân sở tại. Vì vậy, các chính sách về bảo tồn cần phải linh
hoạt, mềm dẻo, hợp lòng dân, vừa đáp ứng được yêu cầu bảo tồn và phát
triển, vừa đáp ứng được các nhu cầu trong cuộc sống hằng ngày của cộng
đồng dân cư. Vai trò của người dân hết sức quan trọng vì họ là những
người sở hữu di sản, họ cần được hưởng lợi nhưng đồng thời cũng phải
chịu trách nhiệm về sự tồn tại của nó. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước
nên đứng ở vai trò hướng dẫn và hỗ trợ tích cực. "Việc bảo tồn các làng
cổ nếu muốn đạt được kết quả, ngoài sự nỗ lực của các nhà chuyên môn,
còn cần có sự tham gia tích cực của các cấp chính quyền, những người
hoạch định chính sách, nhà quy hoạch và cộng đồng dân cư. Vì vậy, công
tác tuyên truyền quảng bá về giá trị di sản và những đề xuất bảo tồn,
phát huy giá trị làng cổ tới tất cả các tầng lớp trong xã hội là một
điều rất cần thiết, cần làm ngay" - Phó Cục trưởng Di sản Nguyễn Quốc
Hùng nêu quan điểm.
Bảo tồn làng cổ là một vấn đề quá lớn và quá khó. Ðiều này được không
ít nhà quản lý và giới chuyên môn khẳng định. Tại hội nghị về quản lý
di tích cách đây không lâu, Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Ðặng Thị Bích Liên thừa nhận, bản thân Bộ cũng đang "bí" trong việc
thiết lập hệ thống quản lý thống nhất từ trên xuống, khi hiện nay các
tỉnh, thành phố trong cả nước có tới sáu mô hình quản lý di tích, mà
việc điều chỉnh sáu mô hình này mỗi nơi lại làm một khác...
Ðô thị hóa là xu hướng tất yếu của một xã hội phát triển. Việc giữ
gìn, phát huy các giá trị làng cổ thật sự là thách thức lớn. Làm sao để
làng cổ trụ vững trong nhịp sống hiện đại? Ðiều đó rất cần nhận thức
đúng đắn, sự đồng thuận của cả chính quyền và người dân.
Theo: Báo Nhân dân