Ông cho biết, thực tế hiện nay, nghệ nhân bậc thầy chưa được nuôi dưỡng,
không bảo hiểm y tế, không bảo hiểm xã hội, thử hỏi số ít những nghệ
nhân trẻ đang tâm huyết, tự nguyện theo học cổ nhạc cha ông liệu sẽ tồn
tại như thế nào? Tình yêu của họ kéo dài được bao lâu? Đó chính là hai
mặt của vấn đề mà chúng ta cần quan tâm.
“Bao giờ Nam Bộ hết cỏ mới hết người đàn hay”
Nhiều di sản văn hoá Việt Nam khi được UNESCO vinh danh đều đang ở
trong ngưỡng gặp thách thức và nguy cơ mai một. Còn với Đờn ca tài tử
Nam Bộ, di sản văn hóa phi vật thể thứ 8 của Việt Nam vừa được UNESCO
công nhận thì sao, thưa ông?
Có thể nói, Đờn ca tài tử là trường hợp ngoại lệ. Sau hơn 100 năm hình
thành và phát triển, loại hình âm nhạc này đã bén rễ sâu rộng không chỉ
trong đời sống văn hóa cư dân Nam Bộ, mà còn lan tỏa ra khắp các vùng
miền Trung Bộ, Bắc Bộ ngay từ nửa đầu thế kỷ 20. Có lẽ trong nền cổ nhạc
Việt Nam, cùng với nghệ thuật Tuồng, Đờn ca tài tử là thể loại hiếm hoi
có sức lan tỏa rộng khắp trên bình diện cả nước. Ở Nam Bộ, từ thành thị
đến nông thôn, từ môi trường bình dân tới chuyên nghiệp, đâu đâu cũng
hình thành những nhóm đờn ca với nhiều cấp độ nghệ thuật khác nhau.
Hơn 100 năm qua, thời nào cũng nổi danh các thế hệ danh ca, danh cầm
với tài năng xuất chúng, đại diện cho giới nghề. Tới mức danh cầm đất
Bắc - nghệ nhân Kim Sinh từng phải thốt lên: “Bao giờ Nam Bộ hết cỏ mới
hết người đàn hay!”. Với sức sống trường tồn đó, nguy cơ mai một với di
sản này là điều không thể xảy ra. Thách thức giờ đây có lẽ là sự nhìn
nhận đúng người, đúng việc của những nhà quản lý.
Tuy Đờn ca tài tử Nam Bộ có sức sống rộng rãi, nhưng một số người vẫn có thể nhầm di sản văn hoá này với cải lương, vì sao?
Trước hết cần nhận định rõ, cải lương là một bước phát triển quan
trọng của nghệ thuật Đờn ca tài tử thông qua hình thức trung gian – Ca
ra bộ. Điều đó có nghĩa sân khấu Cải lương sử dụng bài bản của Đờn ca
tài tử làm cơ sở để hình thành. Từ bao đời nay, Đờn ca tài tử được coi
như cái nôi cung cấp người đờn, người ca cho môi trường sân khấu cải
lương.
Trong từng giai đoạn lịch sử, cứ có nhân tài nào xuất hiện trong dân
gian thì họ thường được các bầu gánh, chủ hãng băng đĩa… mời ra hành
nghề chuyên nghiệp. Điều này lý giải tại sao trong lịch sử, các tài năng
giỏi nghề thường thành danh ở môi trường sân khấu cải lương. Sự khác
nhau chỉ ở chỗ, nhạc Đờn ca tài tử trên sân khấu cải lương được dùng
phục vụ cho các tình huống kịch, nên chỉ sử dụng từng phần chứ không
phải toàn bộ bài bản của Đờn ca tài tử với sự thay đổi nhịp độ thích
hợp.
Bảo vệ các thế hệ nghệ nhân
Đối với những di sản văn hoá phi vật thể (như Nhã nhạc cung đình Huế,
Cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ, Ca trù, Đờn ca tài tử Nam Bộ...), để
giữ gìn và phát huy giá trị của nó có gì khác so với những di sản vật
thể khác ?
“Cổ nhạc Việt Nam không lưu truyền thông qua bản nhạc với hệ ký tự
nhạc thanh chi tiết, chính xác về không gian, thời gian kiểu như nhạc cổ
điển Tây phương. Ở đây, mọi giá trị âm nhạc đều chỉ hiện hữu đến người
nghe khi nghệ nhân ngẫu hứng ứng tác bài bản.”
Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền
Về bản chất, cổ nhạc Việt Nam không lưu truyền thông qua bản nhạc với hệ
ký tự nhạc thanh chi tiết, chính xác về không gian, thời gian kiểu như
nhạc cổ điển Tây phương. Ở đây, mọi giá trị âm nhạc đều chỉ hiện hữu đến
người nghe khi nghệ nhân ngẫu hứng ứng tác bài bản. Điều đó có nghĩa hệ
giá trị cổ truyền luôn gắn bó hữu cơ với sự sống của các thế hệ nghệ
nhân cổ nhạc. Ý thức được điều đó, UNESCO đã đưa ra một định danh mới là
Báu vật nhân văn sống nhằm chỉ vai trò của các nghệ nhân. Như thế, công
cuộc bảo tồn, lưu truyền di sản đồng nghĩa với việc bảo vệ các thế hệ
nghệ nhân, bao gồm thế hệ lão thành và thế hệ trẻ tiếp nối.
Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền
Có ý kiến cho rằng, một số di sản sau khi được UNESCO vinh danh lại được bảo tồn theo dạng phong trào?
Điều này đã xảy ra từ nửa cuối thế kỷ 20, khi chúng ta tiến hành cải
biên, cải tiến nhiều giá trị văn hoá cổ truyền. Kết quả là nhạc dân tộc
được cải biên, hệ nhạc cụ dân tộc cũng được cải tiến theo hướng Tây
phương hóa, dẫn đến sự ra đi vĩnh viễn của nhiều giá trị nghệ thuật cổ
truyền. Đơn cử cho tới thời đầu thế kỷ 20, nghệ thuật chèo từng sở hữu
tới trên 50 vở chèo cổ lớn nhỏ khác nhau. Vậy mà giờ đây chúng ta chỉ
còn khoảng 5 vở chèo cổ với sức sống lay lắt... Có không ít những ví dụ
tương tự, và sự mất mát là không thể bù đắp.
Hiện nay trong chương trình hành động bảo tồn các di sản phi vật thể đã
được công nhận, mặc dù UNESCO đã có tiêu chí rõ ràng, xong nhiều nơi
người ta vẫn cứ làm theo lối cũ với tư tưởng cải biên, cải tiến, làm mới
di sản để những mong phát triển các giá trị cho phù hợp với “hơi thở
thời đại”. Thậm chí có nơi còn đánh tráo khái niệm di sản để nhân vùng
đối tượng bảo tồn cho to hơn, đông hơn… Có nơi thì không chú ý đến việc
bảo vệ, nuôi dưỡng những nghệ nhân, bỏ lỏng di sản cho sự “sống còn” lay
lắt trong đời sống đương đại. Đây là điều mà báo chí đã phản ánh liên
tục trong nhiều năm qua, và cần phải tiếp tục đề cập nữa mới mong thay
đổi căn bản được.
Việc khai thác phục vụ du lịch, nếu không được làm một cách phù hợp sẽ có nguy cơ làm mai một di sản âm nhạc truyền thống?
Đúng vậy. Điều đáng lưu ý là cần phân định rõ ràng công tác bảo tồn với
hoạt động du lịch. Bảo tồn cần giữ đúng theo nguyên tắc giữ lại, không
để mất đi toàn bộ hệ giá trị. Trong khi để phục vụ du lịch, người ta sẵn
lòng làm biến đổi từ từng phần đến toàn bộ để chiều theo thị hiếu số
đông du khách. Nếu lẫn lộn hai nhiệm vụ này, di sản sẽ dần bị bóp méo
theo thời gian dưới góc nhìn của các thế hệ tiếp nối.
Xin cảm ơn ông.
Theo: tienphong