Chỉ
trong vòng 10 năm, Việt Nam đã được thế giới công nhận 8 khu dự trữ
sinh quyển (DTSQ) trên hầu hết các vùng sinh thái của cả nước, gồm: khu
DTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ, khu DTSQ Đồng Nai, quần đảo Cát Bà, đất ngập
nước ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng, khu DTSQ Kiên Giang, khu
DTSQ Tây Nghệ An, khu DTSQ Cù Lao Chàm - Hội An và khu DTSQ Mũi Cà Mau.
Về giá trị đa dạng sinh học, các khu DTSQ của Việt Nam chứa đựng hầu hết
các loại hệ sinh thái chủ yếu của quốc gia và có lẽ hầu hết các loài
mang tính biểu tượng của đất nước. Không chỉ vậy, nhiều khu DTSQ còn hàm
chứa các giá trị văn hóa phong phú. Đây là quê hương của các nhóm dân
tộc thiểu số như Mông, Thái, Chơ Ro, Tày và Nùng, là nơi sinh sống quan
trọng của các nhóm dân tộc thiểu số như Khmer, Mạ và S’tieng. Một số khu
DTSQ lưu giữ những di tích nổi tiếng, minh chứng cho lịch sử hào hùng
của dân tộc… Việc tham gia hội nhập trong một mạng lưới toàn cầu các khu
DTSQ (610 khu DTSQ thuộc 117 quốc gia, tính đến tháng 10.2012) đã góp
phần tạo nên một hình ảnh Việt Nam năng động, sáng tạo và nhân bản. Tuy
nhiên, theo các nhà khoa học, việc bắt kịp trí tuệ của nhân loại trong
sử dụng các khu DTSQ như một cách thể hiện sự hài hòa giữa con người và
thiên nhiên để phát triển bền vững, là một thách thức lớn mà Việt Nam
phải vượt qua.
|
Khu Dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng |
Nguồn: datviettour.com.vn |
Về
vấn đề này, Gs, Ts Nguyễn Hoàng Trí - Tổng thư ký Ủy ban Quốc gia
Chương trình Con người và Sinh quyển Việt Nam (MAB Việt Nam) nhấn mạnh
phương châm “bảo tồn cho phát triển và phát triển để bảo tồn”. Ông phân
tích: một trong những nguyên tắc phát triển của khu DTSQ là thực hiện
đầy đủ 3 chức năng cơ bản: bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển kinh tế
thân thiện với môi trường và hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, giám sát,
giáo dục và gìn giữ giá trị truyền thống. Các khuyến nghị của UNESCO
cũng tập trung vào việc xây dựng các hành động bảo tồn cho phát triển và
phát triển cho bảo tồn, trong đó bảo tồn làm cơ sở để phát triển kinh
tế - xã hội. Bài học thành công từ các quốc gia cho thấy, bảo tồn đa
dạng sinh học tạo nên sự nổi tiếng cho một địa phương và quốc gia, đặc
biệt là các loài quý hiếm sẽ được khai thác khôn khéo từ sự nổi tiếng đó
để vừa phát triển du lịch sinh thái vừa tạo việc làm, thu nhập cho cộng
đồng địa phương, nhất là các địa phương nghèo khó, ở vùng sâu, vùng xa.
Mặt khác, phát triển kinh tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bảo tồn. Khi
kinh tế phát triển, cuộc sống sẽ được cải thiện, phần lớn dân cư có
cuộc sống ổn định và nâng cao trình độ nhận thức, dân trí tăng theo, các
doanh nghiệp và nhân dân sẵn sàng tự nguyện chi trả cho các dịch vụ như
phí sử dụng nước sạch, nguồn tài nguyên, các dịch vụ sinh thái... Các
nguồn thu từ thuế, phí dịch vụ sẽ được tái đầu tư cho các hoạt động bảo
tồn. Đặc biệt, khi chất lượng cuộc sống, ý thức người dân được nâng cao,
áp lực đối với khu di sản và sinh quyển sẽ giảm.
Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, cần phát triển hài hòa các mối quan hệ kinh
tế, môi trường và xã hội, bảo tồn văn hóa truyền thống cũng như bảo tồn
đa dạng sinh học… tại các khu DTSQ. Tại Việt Nam, 8 khu DTSQ thế giới
cũng là ngôi nhà chung của khoảng 1,5 triệu người, gồm hàng ngàn người
thuộc các nhóm dân tộc thiểu số. Mỗi nhóm có những cách thức sinh sống
riêng, phản ánh những hiểu biết và diễn giải độc đáo của họ về tự nhiên
đã được tích lũy qua hàng trăm năm cư trú trên mảnh đất của họ. Trong
khi các nhóm thiểu số thường dễ bị tổn thương trước áp lực của phát
triển từ bên ngoài, bản sắc và những giá trị văn hóa của họ cùng với vốn
kiến thức giàu có về tự nhiên chính là nền tảng vững chắc không chỉ cho
sự phát triển nội lực của những nhóm này mà còn cả với việc bảo vệ các
khu DTSQ. Bởi vậy, cần tạo cơ hội để cộng đồng địa phương được hưởng lợi
từ bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa và thiên nhiên, như: phát triển
du lịch sinh thái, phát triển các đặc sản của khu DTSQ…
Theo
bà Trần Thị Huệ, Ban Thư ký Ủy ban Quốc gia MAB Việt Nam: trong xây
dựng và quản lý bền vững các khu DTSQ, cần sử dụng văn hóa như một công
cụ để giải quyết các mối liên hệ giữa con người với nhau và giữa con
người với thiên nhiên: nếu trong tư duy hệ thống cần có văn hóa tư duy
tổng thể, quảng đại thì trong quy hoạch cảnh quan, cần tôn trọng bản sắc
truyền thống, tôn trọng cộng đồng địa phương, sự tham gia của họ là
nhân tố sống còn cho việc thực hiện quy hoạch. Trong điều phối liên
ngành cần tôn trọng cá nhân, nhóm lợi ích, đối thoại. Trong kinh tế chất
lượng, cần có niềm tin và tự hào, bởi chất lượng sản phẩm và sự nổi
tiếng về bảo tồn là hai yếu tố nâng đỡ lẫn nhau. Bà Trần Thị Huệ khẳng
định: “Bảo tồn khu DTSQ nhờ các công cụ văn hóa để đạt được sự hài hòa.
Chúng ta đang học tập từ thiên nhiên chứ không phải mang ý chí của mình
áp đặt vào nó. Đó chính là sự phát triển bền vững cho địa phương, quốc
gia và nhân loại”.
Theo: daibieunhandan