KINH TẾ - KHỞI NGHIỆP - XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
Chính sách thuế đối với doanh nghiệp: Hướng đến mục tiêu kép
(Ngày đăng: 06/03/2013   Lượt xem: 707)

Chinh sach thue doi voi doanh nghiep: Huong den muc tieu kep

Việc sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật Thuế giá trị gia tăng cần hướng đến mục tiêu kép: tạo nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo tích lũy vốn cho DN để đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao khả năng cạnh tranh.

Việc sửa đổi các luật thuế đối với doanh nghiệp (DN) cần được phân tích, tính toán toàn diện cả ở khía cạnh thu ngân sách và tích lũy của DN, nhằm tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và cạnh tranh DN khi nước ta đã hội nhập sâu rộng với thế giới.

1. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là những công cụ chủ yếu của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; chính sách thuế là bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đồng thời là công cụ điều tiết vĩ mô thị trường và hoạt động của DN.

Hơn 25 năm phát triển theo kinh tế thị trường, nước ta đã có trên 650.000 DN, phần lớn thuộc loại nhỏ và vừa. DN nước ta đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó, đã có hàng vạn DN bị phá sản, ngừng hoạt động.

Trong những năm gần đây, một số DN đã xây dựng chiến lược kinh doanh, chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, hình thành đội ngũ lao động có kỹ năng, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Chẳng hạn, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) không những tăng trưởng mạnh mẽ tại Việt Nam, mà còn đầu tư ra nhiều nước. Cà phê Trung Nguyên đã hình thành một mạng lưới rộng khắp trong nước, đang hướng ra một số thị trường lớn trên thế giới… Đó là những tín hiệu đáng mừng.

Tuy vậy, so với nhiều nước trong khu vực, thì số lượng DN Việt Nam còn ít, hơn 1/4 thế kỷ đổi mới và hội nhập, mà chưa có những thương hiệu tầm cỡ thế giới. Trong khi đó, các tập đoàn hàng đầu của Nhật Bản, như Mitsubishi, Honda, Toyota, Toshiba, đều khởi đầu là DN nhỏ từ đống tro tàn sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Với chiến lược kinh doanh đúng đắn, được Nhà nước bảo trợ, nên chỉ trong hai thập niên, các DN này đã trở thành những tập đoàn hàng đầu thế giới. Tương tự, đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Hàn Quốc có xuất phát điểm tương đương Việt Nam, nhưng cuối những năm 80, Samsung, Hyundai, LG, Posco đã có chỗ đứng trong đội ngũ các DN mạnh nhất thế giới.

Từ kinh nghiệm của những nước đi trước, để nước ta đạt được mục tiêu về cơ bản là nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020, phải phấn đấu tăng nhanh về số lượng DN, quan trọng hơn là phần lớn DN nhỏ và vừa cần đạt đến quy mô theo tiêu chí quốc tế, nhiều tập đoàn kinh tế thuộc loại mạnh trong khu vực, trong đó một số nằm trong tốp 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới.

Do đó, cần xây dựng hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô dựa trên căn bản lợi ích dân tộc trong cuộc ganh đua với các dân tộc trên thế giới để tạo sự đồng thuận và hài hòa giữa Nhà nước với DN. Nhà nước có định hướng và hệ thống giải pháp nhanh chóng hoàn thiện thể chế như chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, đầu tư và tăng trưởng, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi nhất; DN xây dựng chiến lược kinh doanh, chú trọng đầu tư công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng để hình thành đội ngũ DN dân tộc đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường thế giới.

2. Chính sách kinh tế vĩ mô cần được xem xét dưới hai khía cạnh:

(1) Giải pháp tình thế để xử lý những vấn đề như lạm phát cao, sản xuất đình trệ, lãi suất tiết kiệm và tiền vay, nợ xấu;

(2) Giải pháp cơ bản để bảo đảm thực hiện các mục tiêu của từng chiến lược phát triển, kế hoạch 5 năm.

Không dễ kết hợp hài hòa các giải pháp tình thế với giải pháp cơ bản, nhưng đó là đòi hỏi của chính sách kinh tế vĩ mô của quốc gia để khi xử lý những vấn đề của từng thời điểm sẽ tạo tiền đề để thực hiện các định hướng dài hạn của đất nước. Trong chính sách kinh tế vĩ mô, thì chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có quan hệ hữu cơ với nhau, kích thích hoặc kìm hãm sản xuất, kinh doanh của DN.

Để giảm bớt khó khăn cho DN, Chính phủ đã chủ trương giảm, miễn, hoãn thuế, hỗ trợ tín dụng, tăng chi tiêu công, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, điều hành kinh tế vĩ mô đồng bộ, linh hoạt tạo ra tác động ban đầu, nhưng rất quan trọng theo xu thế tích cực đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh.

Tuy vậy, các chính sách đang áp dụng chưa đủ cường độ cần thiết để giải quyết các vấn đề tình thế vì giá trị các gói hỗ trợ khoảng 36.000 tỷ đồng (nếu thực hiện đầy đủ) khó vực dậy hàng vạn DN đang “thở ôxy”, làm tan băng thị trường bất động sản, bảo đảm ổn định giá cả, thị trường. Khá nhiều chính sách chưa được nghiên cứu thận trọng, thiếu nhất quán đã được ban hành, hay thay đổi, như việc điều chỉnh tăng giá điện, giá xăng dầu, phí khám chữa bệnh, kinh doanh vàng miếng, thu phí phương tiện giao thông…, làm tăng chi phí của DN, gây phản ứng tiêu cực đối với việc giải quyết các vấn đề thời sự.

Với những thông tin hiện có, thì rất khó đưa ra dự báo xu thế chủ đạo của kinh tế Việt Nam năm 2013. Do vậy, Nhà nước cần theo dõi động thái thị trường, lắng nghe kiến nghị của các DN thông qua hiệp hội ngành hàng, thống kê đầy đủ và chính xác thực trạng hoạt động của DN từng ngành hàng, lĩnh vực, loại hình để loại bỏ những chính sách lỗi thời, sửa đổi, bổ sung chính sách, giải pháp hiện có nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, để trong những tháng còn lại của nửa đầu năm tạo ra sự chuyển biến tích cực đối với đầu tư và kinh doanh, thoát ra khỏi trạng thái suy giảm tốc độ tăng trưởng, tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn và bền vững hơn trong trong 6 tháng cuối năm và những năm tiếp theo.

3. Năm 2013, Quốc hội sẽ sửa đổi Luật Thuế thu nhập DN và Luật Thuế giá trị gia tăng (VAT). Bộ Tài chính đã tổ chức nhiều cuộc họp lấy ý kiến đại diện DN, chuyên gia kinh tế; những nội dung sửa đổi, bổ sung đã được công khai trong các cuộc hội thảo.

Việc sửa đổi hai luật thuế đó có quan hệ với đầu tư và kinh doanh của DN, do vậy cần hướng đến mục tiêu kép: tạo nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo tích lũy vốn cho DN để đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng quy mô sản xuất, dịch vụ. Do vậy, cần chú ý đặc điểm ngành, lĩnh vực, quy mô theo định hướng tái cấu trúc kinh tế để hiện đại hóa và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn.

Theo quan điểm chỉ đạo đó, Bộ Tài chính cần đánh giá tổng thể việc phân phối lợi ích giữa Nhà nước và DN thông qua tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước và thực trạng tích lũy ban đầu của DN, từ đó thiết kế hệ thống thuế tương đối ổn định và minh bạch để DN có thể hoạch định được chiến lược phát triển với các mục tiêu dài hạn.

Khi chưa có quan điểm chỉ đạo nhất quán, thì việc sửa đổi một vài luật thuế sẽ không bảo đảm tính hệ thống, cũng khó tạo được sự đồng thuận của DN.

Ví dụ, theo Dự thảo Báo cáo của Bộ Tài chính tháng 12/2012, thì thuế thu nhập DN sẽ giảm từ 25% xuống 23% và 20% (đối với DN nhỏ và vừa). Nếu giảm xuống 23%, với dự kiến thu từ thuế này năm 2014 là 150.800 tỷ đồng, giảm thu ngân sách 12.064 tỷ đồng - khoản tiền không đáng kể đối với khoảng 750.000 DN vào lúc đó. Nhiều đại diện DN và chuyên gia kinh tế kiến nghị áp dụng mức thuế thu nhập DN 20%, tuy giảm thu ngân sách khoảng 30.000 tỷ đồng, nhưng tạo lực hấp dẫn đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy vậy, kiến nghị này xem ra không được sự đồng tình của Bộ Tài chính.

VAT là thuế gián thu, về bản chất, do người mua đóng thuế, DN thu hộ Nhà nước, nhưng có quan hệ với sản xuất và kinh doanh của DN. Ví dụ, mỗi lần điều chỉnh giá xăng dầu, giá điện là DN và người dân phải trả thêm tiền cho các sản phẩm đó, làm tăng phí đầu vào, gây ra phản ứng dây chuyền, tăng giá các sản phẩm khác. Nhà nước không chỉ thu thêm VAT điện và xăng dầu, mà còn từ các sản phẩm khác, làm chỉ số giá cả tăng, hạn chế tiêu dùng xã hội.

Cũng theo Dự thảo Báo cáo của Bộ Tài chính tháng 12/2012, tỷ trọng thu VAT trong tổng thu ngân sách nhà nước tăng từ 23,9% (6,55% GDP) năm 2009 lên 28,7% năm 2011 (7,11% GDP). Dự thảo sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng kiến nghị giữ nguyên các mức thuế hiện hành và tiến tới năm 2020, áp dụng một mức thuế như Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2011 về Chiến lược Thuế.

Việc chọn phương án nào tùy thuộc vào quan điểm chỉ đạo việc cải cách hệ thống thuế của nước ta, song cần phải phân tích, tính toán toàn diện không chỉ là thu ngân sách, mà còn là tích lũy của DN, tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và cạnh tranh DN khi nước ta đã hội nhập sâu rộng với thế giới.

4. Trong thời gian gần đây, vấn đề đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển từ lợi thế lao động phổ thông, giá nhân công thấp sang lao động có kỹ năng với thu nhập thỏa đáng, bảo đảm năng suất, chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường được bàn thảo tại nhiều diễn đàn. Tái cấu trúc nền kinh tế không thể thành công nếu không nhanh chóng từ bỏ mô hình tăng trưởng kém hiệu quả, chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên công nghệ, nhân lực chất lượng cao, hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng tăng.

Thành công của Nhật Bản và Hàn Quốc tạo nên “sự thần kỳ Đông Á” chính là nhờ vào chính sách thuế hết sức ưu đãi, các khoản trợ giúp của Nhà nước khá lớn cho DN, khuyến khích ý tưởng mới, sáng kiến mới nhằm khai thác tối đa nguồn lực trí tuệ của con người.

Theo số liệu của PGS-TS Lê Quân công bố tại Ngày hội Nhân sự Việt Nam 2011, qua khảo sát 437 cán bộ quản lý và 335 DN năm 2010, ngân sách đào tạo của DN chiếm 7,13% quỹ lương, bình quân 389.000 đồng/người. Kết quả này cho thấy, DN đầu tư chưa tương xứng cho công tác phát triển nguồn nhân lực. Thực tế, họ thường “săn” người tài từ công ty khác, thay vì tự đào tạo.

Để khắc phục cơ bản nhược điểm về công nghệ và nguồn nhân lực, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích DN đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực thông qua 3 giải pháp chủ yếu:

(1) Ưu đãi cao về thuế đối với DN nhập khẩu công nghệ hiện đại, biến công nghệ đó thành công nghệ Việt Nam, thành lập các trung tâm R&D và đưa các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh. Ưu đãi cao về thuế đối với DN mở các lớp đào tạo, khuyến khích hợp tác giữa DN với tổ chức giáo dục trong việc đào tạo chuyên gia, công nhân lành nghề;

(2) DN đổi mới công nghệ được quyền trích khấu hao trong thời hạn ngắn nhất;

(3) Lập quỹ đầu tư bằng vốn nhà nước và huy động nguồn vốn xã hội để trợ cấp cho DN thành lập các trung tâm R&D, đổi mới công nghệ, tạo lập vườn ươm công nghệ phục vụ DN nhỏ và vừa.

Thay lời kết

“Lý thuyết tăng trưởng hiện đại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khắc phục ‘khoảng trống ý tưởng’ so với ‘khoảng trống vật chất’ trong quá trình phát triển. DN là một động lực chính tạo ra ý tưởng mới và cơ hội học hỏi thông qua việc đầu tư có hệ thống, lâu dài và trên quy mô lớn vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Các hoạt động này dẫn đến phát kiến được đăng ký bản quyền, góp phần cho kho tàng tri thức toàn cầu và là các nhân tố chính tạo ra cạnh tranh và lợi nhuận” (Indermit Gill và Homi Kharas: Đông Á phục hưng - Ý tưởng phát triển kinh tế, Chương 3, tr. 153 - 154. Nxb Văn hóa - Thông tin 2007).

                                                                                                           Theo: Báo Đầu Tư

Ý kiến bạn đọc 0 bình luận
 
Gửi bình luận của bạn
(Bấm vào đây để nhận mã)
Gửi thông tin Nhập lại
 
 
                                

Bản quyền thuộc về:  Công ty cp Giáo dục và Đào tạo Hoàng Gia Quốc Tế
S
Ince 31-08-2010

Ban truyền thông quan hệ quốc tế - Hiệp hội làng nghề Việt Nam     

Phụ trách biên tập : Nhà báo Lê Kim Hoa       

Địa chỉ: T 16 Hàn Việt Tower- 348 Kim Ngưu, Q Hai Bà Trưng, Hà Nội

Văn phòng 1: Tầng 2 số nhà 5 ngách 82/3 Phố Yên Lãng - Quận Đống Đa - TP Hà Nội

Văn phòng 2: 489 Hoàng Quốc Việt tầng 03                                             

International royal education & training.,jsc                                                

Tel: 034.8560486  Hot line; 0929805137 Viber - zalo :0929805137 

Email: irecvietnam@gmail.com   : facebook: irecvietnam,  


 

2
Đang xem:
76.163.537
Tổng truy cập: