Theo thống kê của Tổng cục Hải quan,
tính đến cuối tháng 11-2012, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gốm sứ vào Nhật Bản
đạt khoảng 61 triệu USD, sản phẩm mây, tre, cói và thảm đạt 32 triệu USD, gỗ và
sản phẩm gỗ khoảng 601 triệu USD.
Hiện Nhật Bản đang là thị trường nhập khẩu lớn nhất đối với
mặt hàng thủ công mỹ nghệ, trang trí nội thất của Việt Nam, chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng này của Việt Nam
từ trước tới nay.
Tuy
nhiên, các chuyên gia đến từ Nhật Bản đánh giá, con số này vẫn chưa tương xứng
bởi tiềm năng về nguyên liệu và lực lượng lao động hơn 10 triệu người của ngành
này ở nước ta có thể đáp ứng lượng hàng hóa lớn hơn nữa. Nhưng khả năng tiếp
cận thị trường của các DN Việt Nam
còn nhiều hạn chế, thiếu thông tin nên không nắm bắt đúng và đủ nhu cầu tiêu thụ
thực tế.
Ông Hiroshi Sakamoto, Tổng giám đốc Công ty Tư vấn DN Sense of Life (Nhật Bản),
chia sẻ muốn gia tăng lượng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường Nhật
Bản không phải là chuyện khó, nhưng nhất thiết DN Việt Nam phải loại bỏ thói
quen bị động hiện nay.
Thay vì ngồi chờ đơn hàng đến, DN cần phải mạnh dạn tập trung vào tìm hiểu kỹ các
kênh phân phối để sản phẩm phù hợp với khách hàng của kênh phân phối đó. Hiện
nay, Nhật Bản đang có nhiều kênh tham gia phân phối các mặt hàng này như trung
tâm mua sắm Lalaport, Aeon Mall, cửa hàng tự chọn United Arrows, Cibone, cửa
hàng bán lẻ tại ga tàu Lumine, cửa hàng giảm giá Dongkihotei, cửa hàng bách hóa
Isetan Takashimaya…
Nếu gia nhập được vào chuỗi cung ứng của các kênh phân phối này, chắc chắn
nguồn hàng xuất khẩu sẽ gia tăng. Ngoài việc sản xuất theo những thiết kế quen
thuộc, các DN trong ngành cần chủ động liên kết với các nhà thiết kế ở nước
nhập khẩu, các đơn vị cung cấp nguyên phụ liệu để hình thành một tổ hợp số đông
để hỗ trợ lẫn nhau.
Khi đó, nhà sản xuất sẽ hiểu được nhóm khách hàng mục tiêu tại Nhật Bản để đưa
ra những dòng sản phẩm ưu việt với giá cả hợp lý, dễ tiếp cận người tiêu dùng.
Hiện
đã có một DN chuyên về thêu ren đã tiếp cận rất sâu vào thị trường Nhật Bản nhờ
nghiên cứu kỹ thị trường và tâm lý tiêu dùng.
Cụ thể, DN này đã cử nhân viên sang Nhật Bản nghiên cứu văn hóa truyền thống,
từ đó sáng tạo ra những sản phẩm vừa gần gũi vừa mới lạ nhưng vẫn mang phong
cách sáng tác của người nghệ nhân. Những sản phẩm này được quảng bá, giới thiệu
rộng rãi trong các cuộc triển lãm nên nhà phân phối lẫn người tiêu dùng có cơ
hội cảm nhận sản phẩm.
Nhờ vậy, nhà phân phối cảm thấy lợi ích khi hợp tác và đã tiến hành ký hợp đồng
dài hạn. Nếu DN nào cũng chủ động như vậy, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam
không chỉ có cơ hội tiến sâu vào thị trường Nhật Bản mà còn khai phá được nhiều
thị trường khác trên thế giới.
Nguồn: Saigondautu