"Để nâng cao chất
lượng sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam
trước hết cần nâng cao trong thiết kế mẫu mã và chiến lược phát triển bền vững”
- Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, ông Lưu Duy Dần nói.
Phát triển chưa tương xứng
Theo
thống kê, hiện nay cả nước ta có gần 2.800 làng nghề, trong đó hơn 1.600 làng
nghề được công nhận, gần 400 làng nghề truyền thống và hàng trăm nghệ nhân được
phong tặng danh hiệu với 53 nhóm nghề, ước tính có khoảng 200 loại sản phẩm thủ
công khác nhau như: dệt may, da giầy, mây tre đan, kim khí, vàng bạc mỹ nghệ, đồ
đồng mỹ nghệ, gốm sứ, thêu ren, chiếu cói, thổ cẩm….
Nhiều
sản phẩm có lịch sử phát triển hàng trăm, hàng nghìn năm như: Tơ lụa Vạn Phúc,
Đồng Ngũ Xã, gỗ Sơn Đồng, thêu Quất Động, mây tre đan Phú Vinh, gốm sứ
Bát Tràng, gốm Chu Đậu, gỗ Đồng Kỵ, thổ cẩm Mai Châu, kim hoàn Định Công, khảm
Chuôn Ngọ… Các làng nghề truyền thống đã và đang có nhiều đóng góp cho GDP của
đất nước nói chung và nền kinh tế nông thôn nói riêng.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ vẫn còn đơn điệu về mẫu mã
Hiện nay, nhiều làng nghề truyền thống bị mai một đã được
khôi phục lại, đầu tư và phát triển cả về quy mô và kỹ thuật. Hàng hóa không
chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra thị trường thế giới với số
lượng, giá trị lớn.
Làng nghề truyền thống đóng vai trò vô cùng quan trọng, trực
tiếp tác động tới sự phát triển kinh tế nông thôn, xóa đói giảm ngheo, giải
quyết vấn đề việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
lao động, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn Việt Nam.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, các làng nghề truyền thống
Việt Nam
cũng đang dần chuyển mình để bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới. Thị
trường tiêu thụ mở rộng, sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường cả trong
và ngoài nước với giá trị lớn. Vì vậy, những năm gần đây số hộ và cơ sở ngành
nghề ở nông thôn đang tăng lên với tốc độ bình quân khoảng 9% - 10%/năm, kim
ngạch xuất khẩu từ các làng nghề không ngừng tăng theo.
Bên cạnh những thuận lợi thì thách thức đặt ra đối với các
làng nghề truyền thống của Việt Nam là một vấn đề lớn mà Hiệp hội Làng nghề
Việt Nam và các chuyên gia nghiên cứu Làng nghề Thủ công mỹ nghệ (TCMN) nhiều
lần đưa ra giải pháp tháo gỡ giúp các doanh nghiệp, làng nghề truyền thống Việt
Nam giải quyết khó khăn hiện nay.
Ông Vũ Quốc Tuấn, Trưởng ban Cố vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng:
“Thời gian quan, việc phát triển làng nghề còn chưa tương xứng với tiềm năng,
thế mạnh của làng nghề. Sản phẩm làng nghề còn đơn điệu, mẫu mã thiếu đa dạng
phong phú, chủ yếu sản xuất đơn hàng theo mẫu mã của nước ngoài đặt hàng”.
Thực tế, các sản phẩm TCMNVN chủ yếu được làm gia công, máy
móc, phương tiện kỹ thuật còn lạc hậu. Nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ cho
sản xuất làng nghề còn hạn chế, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập từ nơi
khác. Vì thế, chất lượng sản phẩm chưa cao, vào trình độ tinh sảo và giá trị
truyền thống của sản phẩm ít được chú trọng.
Chúng ta bị hạn chế về vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ do
doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN chưa thực sự nắm rõ thông tin về thị trường
muốn xuất khẩu. Trong khi đó, hầu hết sản phẩm TCMNVN chưa có nhãn mác thương
hiệu làm hạn chế sức cạnh tranh với các nước như Trung Quốc, Thái Lan....
Theo nghệ nhân Nguyễn Văn Đức, Làng nghề mộc La Xuyên, Nam
Định cho rằng, không chỉ làng nghề mộc La Xuyên mà các làng nghề, doanh nghiệp
sản xuất hàng TCMN đang gặp phải tình trạng khan hiếm đơn hàng, hoặc có thì giá
rất thấp, trong khi đó, gia thành và giá nguyên liệu đang tăng mạnh, khiến cho
nhiều doanh nghiệp phải bỏ đơn hàng.
Mở rộng hướng ngoại
Đại diện cho Gốm Chu đậu, Nam Sách, Hải Dương chia sẻ, nghề gốm cổ truyền Chu
Đậu đã bị thất truyền từ 500 năm nay, cơ sở vật chất sản xuất gốm hầu như không
còn, thợ gốm giỏi ở địa phương không có, vì thế để đào tạo nguồn nhân lực cho
gốm Chu Đậu hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn.
Gốm Chu Đậu được sản xuất hoàn toàn bằng thủ công nên đòi
hỏi người thợ phải khéo léo, tỉ mỉ, truyền tải những giá trị nghệ thuật của sản
phẩm qua từng nét vẽ. Vì vậy, đào tạo được một nghệ nhân có trình độ tay nghề
cao đòi hỏi phải mất thời gian khá dài
Theo như khảo sát tại thị trường EU đối với mặt hàng đồ lưu
niệm của Việt Nam
xuất khẩu sang. Mỗi năm tại thị trường EU, mặt hàng này tiêu thụ khoảng 800 tỷ
USD. Trong khi đó, hàng Việt Nam
xuất khẩu sang chỉ chiếm chưa tới 1%. Yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp, làng
nghề truyền thống trước hết cần chủ động tiếp cận với thị trường cả nội địa và
thị trường nước ngoài đặc biệt là một thị trường lớn như EU.
Thạc sỹ Bùi Văn Vượng, chuyên gia nghiên cứu Nghề TCMN và
Làng nghề VN nhận định, hiện nay chúng ta đang thừa những mặt hàng truyền thống
như: lụa tơ tằm, mây tre đan, gốm, thêu ren...nhưng lại thiếu những mặt hàng
lưu niệm tại các khu du lịch. Hàng Việt Nam tại các khu du lịch hầu như không
có hoặc nếu có thì chất lượng rất kém không mang nét đặc trưng về con người tập
tục của chính địa phương đó, chủ yếu là hàng của Trung Quốc, Malaysia, Thái
Lan....
Thị trường các quốc gia trong khu vực và châu âu vẫn đang bỏ
ngỏ
Thực tế cho thấy, để sản phẩm TCMNVN phát triển không chỉ ở
thị trường nội địa mà vươn xa hơn là xuất khẩu sang các thị trường lớn khác,
đòi hỏi sản phẩm TCMNVN cả về chất và lượng. Đường nét hoa văn trên sản phẩm
TCMN phải truyền tải văn hóa đặc trưng của dân tộc, mang giá trị bảo tồn di sản
văn hóa truyền thống. Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân.
Tạo ra nét khác biệt nổi trội qua những sản phẩm TCMNVN với sản phẩm của các
nước khác. Yêu cầu về mẫu mã, thiết kế kiểu dáng được các chuyên gia đặt lên
hàng đầu.
Chủ tịch Hiệp hội thêu ren TP. Hà Nội, ông Mai Văn Hưởng
khẳng định: Các sản phẩm TCMNVN cần được hợp tác chặt chẽ giữa người sản
xuất và các họa sỹ thiết kế”. Phát động phong trào thiết kế sáng tạo mẫu mã mới
cho các sản phẩm TCMN từ họa sĩ, doanh nghiệp đến các nghệ nhân trong làng nghề
truyền thống. Đồng thời, mở các lớp đào tạo dạy nghề thiết kế mẫu mã sản phẩm;
tổ chức các cuộc thi thiết kế mẫu mã sản phẩm TCMN và trao giải cho những thiết
kế đẹp, kiểu dáng, chất lượng, giá cả thích hợp để khuyến khích phong trào
thiết kế phát triển trên phạm vi cả nước.
Thị trường tiêu thụ và sản phẩm hàng hóa luôn theo quy luật
cung - cầu. Muốn nắm bắt được xu hướng của thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp, làng nghề truyền thống phải xây dựng kế hoạch cụ thể, nghiên cứu thị
trường trước khi quyết định sản xuất, xuất khẩu sang một thị trường nào đó. Sản
phẩm TCMN vừa mang văn hóa truyền thống dân tộc vừa phù hợp với phong cách của
người tiêu dùng tại từng thị trường.
Các doanh nghiệp, làng nghề truyền thống cần đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ mới trong sản xuất, vừa nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm,
đồng thời khắc phục ô nhiêm môi trường. Đúng với phương châm “hiện đại hóa
truyền thống, truyền thống hóa hiện đại”, nâng cao hiệu quả kinh doanh thúc đẩy
sản xuất hàng TCMN phát triển.
Đã đến lúc, cơ quan quản lý và Hiệp hội các làng nghề cần
nâng cao hơn nữa nhận thức về giá trị kinh tế, văn hóa của các làng nghề truyền
thống. Đưa ra những chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp, làng nghề truyền
thống sản xuất sản phẩm TCMN, hạn chế tối đa tình trạng sao chép mẫu mã tràn
lan như hiện nay.
Theo VIetQ.vn