Mía đường của
nước bạn Lào có giá thành thấp hơn 3 lần so với mía đường Việt Nam là
một cú sốc thực sự cho nền nông nghiệp nước ta! Trong thông điệp đầu
năm, Thủ tướng yêu cầu đầu tư xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.
Thực tế một số doanh nghiệp lớn cũng đã đầu tư vào nông nghiệp. Rõ ràng
nền nông nghiệp nước ta đang đứng trước cơ hội lớn, nhưng bắt đầu từ
đâu? Chúng tôi đặt câu chuyện này với GS-TS Võ Tòng Xuân - nhà nông học
hàng đầu Việt Nam, hiện nay là hiệu trưởng một số trường đại học.
Thiếu kiến thức, thiếu quy hoạch
* Phóng viên: Thưa giáo
sư, tại sao gần như các sản phẩm nông nghiệp của chúng ta không cạnh
tranh nổi trên thế giới, trong khi có khoảng 80% là nông dân hoặc “gốc
gác” nông dân?
* GS-TS VÕ TÒNG XUÂN: Chúng ta hội nhập
kinh tế toàn cầu, đòi hỏi mỗi cá nhân phải có năng lực cạnh tranh. Làm
cái gì cũng nghĩ đến cạnh tranh. Khi thế kỷ 21 bắt đầu, các nước lớn như
Canada, Mỹ, Úc… và gần chúng ta nhất là Singapore có hẳn chương trình
đào tạo lại các thành phần trong xã hội để có năng lực cạnh tranh. Lúc
đó, chúng ta dửng dưng, chưa hình dung rõ. Bây giờ chúng ta mới bắt tay
thực hiện chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, càng lo
cho nông dân thì mới thấy mình đi sau người ta, tụt hậu xa hơn.
Ở những nước phát triển trên thế
giới, phần lớn nông dân đều được học hành bài bản. Hà Lan có diện tích
chỉ bằng ĐBSCL nhưng sản xuất lượng nông sản có giá trị đứng thứ nhì thế
giới. Các nông dân này phải có trình độ đại học hoặc cao đẳng. Không
học thì không được nhận lãnh đất canh tác trên những ô đất mới lấn biển.
Tôi tới thăm một gia đình nông dân tại Đan Mạch, khi giới thiệu xong
ông chủ nhà liền nói: “Gia đình tôi rất vinh dự vì có thằng rể là nông
dân. Tôi già rồi, nhà tôi chỉ mỗi tôi có bằng cấp về nông nghiệp nên nhà
nước cho nhận đất, nếu không có ai kế tục thì đất này giao lại nhà
nước”. Tôi nghe xong “tá hỏa” liền, quả là cú sốc về văn hóa! Đó là điều
khác biệt cơ bản với nước ta, cha truyền con nối, chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm lão nông tri điền; quan niệm lâu nay là thi rớt đại học mới làm
nông.
Một điểm khác, Việt Nam trong thời gian dài nhờ các nước
giúp khá lên, các cá thể khá lên, nhưng rồi các cá thể không liên kết
lại, mạnh ai nấy làm thì không đi tới đâu. Trong thời buổi hội nhập hàng
hóa nông nghiệp phải đi vào các siêu thị hoặc các nhà phân phối mới làm
giàu, còn vào chợ “chồm hổm” chỉ sống qua ngày thôi.
|
Thu hoạch lúa tại đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: CAO THĂNG |
* Nhưng chúng ta luôn đối mặt với nghịch cảnh được mùa mất giá, loay hoay trồng cây gì, nuôi con gì?
*
Cái này là một phạm trù khác, không phải trách nhiệm của nông dân. Lâu
nay chúng ta hay nói nông dân trồng cây này cây kia, nhưng không ai chỉ
chỗ cho họ bán, không biết ai mua. Chỗ nào cũng bắt người ta trồng lúa,
nhưng không biết tiêu thụ ra sao?
Tôi thấy ở các quốc gia tiên
tiến có quy hoạch nông nghiệp bài bản, còn nông dân ở mình rất “tự do”,
muốn trồng gì thì trồng, không thì chặt, thiệt hại cuối cùng thuộc về
nông dân. Rõ ràng, vai trò về vĩ mô không điều khiển được. Ngay cả Bộ
NN-PTNT nước ta tuy có trang web về lúa, nhưng lại không có sơ đồ vùng
nào đang gieo trồng, vùng nào đang thu hoạch… Lẽ ra khi nắm được điều
này thì chúng ta mới biết được như thế nào và điều khiển ra sao.
Chúng ta có quy hoạch nhưng
để ai muốn làm gì thì làm, không chế tài được nên cũng như không. Ví dụ
ngành mía đường ở tỉnh nọ, quy hoạch đã được phê duyệt nhưng xuống tới
nông dân thì chuyển sang trồng mì, lý do là giá mì cao hơn. Cấp xã lại
nói thôi để trồng mì mới có tiền... Vậy là da beo, chỗ này mía, chỗ kia
cao su, chỗ nọ lại trồng cây mãng cầu.
* Thưa giáo sư, nhưng với nông dân, phần lớn họ chỉ quan tâm trồng cây gì, nuôi con gì có lời?
*
Chính xác. Bây giờ phải làm sao cho nông dân thấy nhà nước quy hoạch
như thế này là đúng, có lời nhất, thế họ mới trung thành với quy hoạch
đó. Làm nghề quy hoạch phải phân tích chất đất, nước, thổ nhưỡng… rồi
lên bảng phân bổ thị trường, chứ không phải làm bản đồ quy hoạch để treo
trên tường. Nhiều quy hoạch của chúng ta không theo cơ sở khoa học mà
chỉ duy ý chí. Như quy hoạch mía đường, đến giờ chúng ta cũng chưa có cơ
sở dữ liệu khoa học nào chính xác để hướng dẫn nông dân trồng giống mía
gì trên đất của mình, chế độ bón phân, cách làm đất, nước tưới như thế
nào. Chủ yếu chúng ta dựa vào kinh nghiệm cũ, nông dân dựa vào đó,
khuyến nông cũng lấy ra xài, chứ không dựa trên căn cứ khoa học chuẩn
xác để thực hiện theo quy trình. Khi có được giải pháp đó, nông dân mới
có lời hơn khi thực hiện theo quy hoạch, từ đó mới tuân thủ quy hoạch,
trung thành với mình.
Phải có những “nông dân lớn”
* Vậy muốn thay đổi căn bản về nông nghiệp, chúng ta phải bắt đầu từ đâu, thưa giáo sư?
*
Quy hoạch của Chính phủ là vô cùng quan trọng. Chúng ta phải tiến hành
quy hoạch, xem thị trường trong nước, quốc tế để tạo ra được bản đồ quy
hoạch động. Chắc chắn trên thế giới nhu cầu về gạo sẽ giảm đi nhưng thịt
cá, trứng tăng lên, tức bò, heo, gà… phải có thức ăn, tinh và xơ, điều
đó cũng có nghĩa là “bớt lúa tăng cỏ” cho gia súc. Ví dụ như ở lãnh thổ
Đài Loan, mặc dù biết trồng lúa rất hay nhưng nếu trồng toàn lúa thì
không bán hết được nên họ trồng một phần lúa, còn lại trồng cỏ để nuôi
bò. 1ha cỏ có giá trị gấp 4 lần 1ha lúa! Vì thế chúng ta không nên chỉ
trồng lúa!
Nhà nước đóng vai trò đầu tàu, hoạch định chiến lược,
bơm vốn ra mới thu hút được nguồn lực xã hội tham gia đầu tư. Trong
ngành mía đường của Thái Lan, một tập đoàn tư nhân mỗi năm bỏ ra mười
mấy triệu USD cho nghiên cứu khoa học. Tất nhiên bên cạnh đó Chính phủ
Thái Lan có hỗ trợ, nhưng bản thân tập đoàn phải lo, làm sao có một
chuỗi giá trị kỹ thuật nhằm đảm bảo cho nông dân có lời. Chưa hết, Thái
Lan có hẳn một trường đại học về mía đường, ở Ấn Độ tiểu bang nào có cây
mía là có chương trình đào tạo về cây mía. Ngược lại, Việt Nam có một
viện nghiên cứu mía đường nhưng ngân sách quá mỏng, mỗi năm sử dụng
khoảng 2 tỷ đồng, không có nghiên cứu gì đáng kể. Cây lúa cũng vậy,
nhiều nơi nghiên cứu, nhưng thực ra cũng “què quặt”.
Tiếp đó,
chúng ta cần có những “nông dân lớn”, như liên kết 4 nhà để lập ra cánh
đồng mẫu lớn. Tất cả các nông dân này cùng làm đúng quy trình; đầu tư
khoa học kỹ thuật, tiếp thị sản phẩm ra thế giới… Lúc đó mới nâng cao
khả năng cạnh tranh quốc tế được. Đã hội nhập thì trong đầu phải luôn
luôn nghĩ đến cạnh tranh. Hộ nông nhỏ phải đổi mới, trở thành một bộ
phận của “nông dân lớn”, chứ không theo cách làm cũ. Từ đó sẽ phát triển
nhanh hơn, nông dân giàu nhanh hơn, đóng thuế cho nhà nước nhiều hơn,
đất nước sẽ nhanh giàu hơn.
* Bằng cách nào để sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vươn ra thế giới?
*
Thế giới cơ bản có 3 nhóm chính: thứ nhất là lao động, đông nhất nhưng
không bán được hàng. Thứ hai là doanh nghiệp, kết nối thị trường. Để hai
ông này ngồi với nhau, phải có ông thứ ba là nhà nước, đứng giữa điều
phối, tạo điều kiện tài chính, pháp luật, cũng như đi “bắt mối” giữa
nước này với nước kia, giữa các thị trường với nhau để tìm đầu ra cho 2
nhóm đầu. Do đó, vai trò xúc tiến thương mại rất lớn, dẫn dắt doanh
nghiệp sản xuất để gặp gỡ thị trường lớn chào sản phẩm, ví dụ có những
hội chợ đặc biệt mà các ngày đầu dành cho những “ông lớn” về sản xuất và
tiêu thụ gặp nhau, sau đó mới mở cửa cho công chúng. Tức là phải chủ
động tìm kiếm thị trường tiềm năng, đưa sản phẩm của mình tới chào hàng,
chứ không phải thụ động ngồi nhà chờ họ tới, được chăng hay chớ. Về lâu
dài phải triệt tiêu, giảm thiểu chi phí trung gian để giảm giá thành
sản phẩm, tăng thu nhập cho người nông dân.
* Cảm ơn giáo sư!
|
|
* Từ năm 2006, Công ty cổ phần Bảo
vệ thực vật An Giang (AGPPS) triển khai chương trình Cùng nông dân ra
đồng. 1.017 kỹ sư “3 cùng” của công ty có mặt trực tiếp tại 12.000 điểm,
mô hình trên cả nước để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân, nhằm
giúp nông dân tiếp cận với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao kỹ
thuật canh tác và nâng cao được năng suất, chất lượng nông sản, từ đó
nâng cao thu nhập.
* Năm 2007, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai
(HAG) chuyển hướng đầu tư sang nông nghiệp tại Lào, Campuchia. Tính đến
nay, quỹ đất này công ty đang sở hữu lên đến 100.000ha. Ba loại cây chủ
lực được đầu tư gồm: cao su, mía đường và cọ dầu.
* Công ty cổ
phần Cá tầm Việt Nam đã thuê các chuyên gia Nga sang làm việc về sinh
sản và ấp nở thành công cá tầm Nga tại Việt Nam. Đặc biệt đơn vị này
đang sở hữu các giống cá tầm Beluga quý hiếm cho trứng với giá trị hàng
ngàn USD mỗi ký. Công ty đã sở hữu đàn cá tầm trên 500.000 con tại nhiều
hồ nước trên toàn quốc.
* Công ty cổ phần Việt - Úc đã thuê
chuyên gia từ Úc nghiên cứu tạo ra giống tôm thẻ chân trắng năng suất
cao, ít dịch bệnh, thích nghi với điều kiện Việt Nam. Sau hơn 10 năm,
đến nay Công ty cổ phần Việt - Úc đã có nhà máy sản xuất tôm giống tại
các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Định, Bạc Liêu... với hàng chục tỷ
con tôm giống cung ứng ra thị trường mỗi năm, cạnh tranh được với các
tôm giống nhập ngoại. | |
|
|
Theo: saigongiaiphong