CIAT và ngành sắn Việt Nam
Những năm gần đây ngành sắn Việt Nam được chứng kiến những bước phát
triển ngoạn mục. Sản lượng sắn năm 2009 của Việt Nam đạt 9,45 triệu tấn,
tăng vọt so với mức xấp xỉ 2 triệu tấn năm 2000. Năng suất sắn tăng từ
mức trung bình 8,36 tấn/hecta năm 2000 (thấp hơn mức 8,65 tấn/hecta của
châu Phi cùng thời gian) lên 16,3 tấn/hecta năm 2009 và đến năm 2012 đạt
18,2tấn/hecta (cao hơn hẳn mức 10,77 tấn/hecta ở châu Phi và 12,92
tấn/hecta ở châu Mỹ cùng thời gian). Mặc dù mức năng suất trung bình như
vậy vẫn thấp hơn so với một số nước trong khu vực, như Ấn Độ đạt 36,47
tấn/hecta, Cambodia đạt 21,3 tấn/hecta, Indonesia đạt 20,3 tấn/hecta,
Thái Lan đạt 19,3 tấn/hecta, nhưng tại Việt Nam hiện nay cũng đã có
nhiều hộ gia đình đạt tới sản lượng 36 – 50 tấn/hecta.
Để có được những thành quả trên, không thể không nhắc đến những nỗ lực
của các chuyên gia CIAT trong hợp tác nghiên cứu, truyền bá kinh nghiệm
trên nhiều lĩnh vực, từ kỹ thuật canh tác, phòng chống sâu bệnh, kết nối
nông dân với thị trường, và đặc biệt là đưa vào Việt Nam nhiều giống
sắn mới cho kỹ thuật cao. Hàng trăm nghìn hecta trên cả nước đã được đưa
vào các giống sắn mới, chủ yếu gồm các giống KM94, KM140, KM98-5,
KM98-1, SM937-26, KM98-7. Bên cạnh đó CIAT còn đưa vào Việt Nam hàng
chục nghìn hạt giống KM140, KM98, KM98-7-5, và nhiều loại khác để thử
nghiệm phục vụ ngành sản xuất ethanol.
Tính đến nay, các giống sắn mới từ CIAT đã được triển khai trên 90% diện
tích canh tác cả nước, góp phần quan trọng giúp sắn trở thành một trong
những nông phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Việc phát triển, sản
xuất các sản phẩm tinh bột sắn, thức ăn gia súc, và nhiên liệu ethanol
được các nhà nghiên cứu cho rằng đã mang lại nhiều công ăn việc làm, thu
hút đầu tư nước ngoài, đóng góp vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở một số vùng nông thôn – hiện nay Việt Nam có 13 nhà máy sản
xuất nhiên liệu ethanol, 66 nhà máy sản xuất tinh bột quy mô công
nghiệp, và hàng nghìn cơ sở chế biến khác. |