Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được WB dự báo sẽ ổn
định ở mức 5,4-5,5% trong các năm từ 2014-2016...
Việt Nam là một trong số ít
quốc gia tiếp tục được nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn là điểm đến đầu tư hấp
dẫn.
“Với những rủi ro mà các nước đang phát triển phải đối mặt, đã đến lúc các
nhà hoạch định chính sách cần suy nghĩ về phương án đối phó với chính sách thắt
chặt tài chính toàn cầu”.
Đó là ý kiến của chuyên gia kinh tế cao cấp Andrew Burn, Ngân hàng Thế giới
(WB) tại Hội thảo “Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2014: đối phó với việc bình
thường hóa chính sách tại các nước thu nhập cao” do Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương và WB tổ chức ngày 21/1.
Theo WB, tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2014 sẽ ở mức 3,2%, cao hơn hẳn
so với tỷ lệ tăng trưởng 2,4% đạt được trong năm 2013 và sẽ tiếp tục lên mức
3,4% và 3,5% trong các năm 2015 và 2016. Phần lớn sự tăng tốc của kinh tế toàn
cầu dựa vào tăng trưởng tại các nước thu nhập cao sau nhiều năm tăng trưởng
thấp và suy giảm trầm trọng bởi cuộc khủng hoảng tài chính.
Trong bối cảnh đó, tăng trưởng tại khu vực Đông Á - Thái Bình Dương sẽ giữ mức
7,2% trong năm 2014 và giảm nhẹ đôi chút xuống 7,1% vào năm 2015 và 2016.
WB cho rằng mức tăng trưởng này kém hơn so với thời kỳ trước khủng hoảng nhưng
phù hợp với tiềm năng khu vực. Với xu thế như vậy, tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam được WB dự báo sẽ ổn định ở mức 5,4-5,5% trong các năm từ 2014-2016. Điều
này đồng nghĩa với việc kinh tế Việt Nam sẽ “đi ngang” trong 3 năm tới.
Quản lý tốt quá trình chuyển đổi
Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đang nằm trong “vòng
xoáy” của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm đưa nền kinh tế vượt qua giai
đoạn khó khăn, hướng tới tăng trưởng hiệu quả và bền vững hơn trong thời gian
tới.
WB nhận định kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi và sự chuyển đổi này là cần thiết
trong bối cảnh nền kinh tế bộc lộ những yếu kém.
“Chương trình đổi mới lần thứ nhất của Việt Nam đã đem lại những thay đổi lớn
lao cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều bất cập. Chương trình
cải cách nền kinh tế mới của Việt Nam cần phải giải quyết những vấn đề này”, chuyên
gia kinh tế của WB tại Việt Nam, ông Sandeep Mahajan nói và cho rằng thách thức
đối với quá trình chuyển đổi của Việt Nam hiện nay đó chính là những thách thức
phải đối mặt đến từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng.
Ở góc độ khác, ông Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung ương (CIEM) cho rằng tái cơ cấu nền kinh tế, về bản chất là xây dựng
và tạo ra hệ thống động lực tăng trưởng mới, phân bổ lại nguồn lực một cách
hiệu quả hơn. Tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam tập trung vào 3 trụ cột chính
là đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng song theo ông
Thành, đây không phải là tất cả.
“Trong 20 năm tới, Việt Nam phải đối mặt với vấn đề di cư nhanh chóng từ khu
vực nông nghiệp vì vậy Việt Nam cũng cần phải tính tới việc phân bổ nguồn lực
cho vấn đề này. Ngoài ra, bên cạnh những vấn đề truyền thống, biến đổi khí hậu
cũng là vấn đề mới nổi lên mà Việt Nam cần phải ứng phó vì vậy, quá trình phân
bổ lại nguồn lực của Việt Nam cũng cần phải tính toán tới vấn đề này”, ông
Thành khuyến nghị.
Hơn thế nữa, theo các chuyên gia kinh tế của WB, việc tăng trưởng dựa vào chính
sách tài chính tiền tệ và tài khóa nới lỏng sẽ không còn nhiều dư địa vì vậy
việc cần làm là phải tìm ra những động lực cho sự tăng trưởng.
Vốn đầu tư nước ngoài thay đổi
Mặc dù tình hình kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn song dòng vốn FDI,
theo WB, lại không có nhiều sự biến động trong cả giai đoạn khủng hoảng. Việt
Nam là một trong số ít quốc gia tiếp tục được nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn là
điểm đến đầu tư hấp dẫn. Chỉ tính riêng trong năm 2013, vốn FDI đổ vào Việt Nam
đã đạt hơn 20 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2012.
“Theo quan sát của tôi, những quốc gia nhận được nhiều vốn FDI sẽ dần có vị trí
trong chuỗi giá trị toàn cầu, hiệu quả của đầu tư trong nước cũng dần được nâng
cao, chất lượng nguồn nhân lực nâng cao, kỹ năng sản xuất được cải thiện... Đây
là những tác động rất tích cực mà các quốc gia nhận FDI thu được”, ông Andrew
nói.
Tuy nhiên, năm 2014, Mỹ sẽ bắt đầu rút gói nới lỏng định lượng, theo đó lãi
suất toàn cầu tăng nhẹ và đạt mức 3,6% vào khoảng giữa năm 2016. Điều này kéo
theo sự suy giảm dòng vốn chảy vào các nước đang phát triển do các nhà đầu tư
muốn hưởng lãi suất cao tại các nước thu nhập cao.
Trong năm 2013, thị trường chứng khoán của Việt Nam đã có bước tăng trưởng
mạnh.Vì vậy, chuyên gia kinh tế cao cấp Andrew cho rằng nếu quá trình này diễn
ra mạnh thì tác động lên các nước đang phát triển sẽ rất rõ ràng.
Dòng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển sẽ giảm khoảng 50% hoặc hơn
nữa trong vòng vài tháng và sẽ làm cho GDP các nước thu nhập trung bình rơi
xuống mức thấp hơn. Thâm hụt cán cân thanh toán có thể sẽ tăng.
Cuối cùng, các chuyên gia của WB khuyến nghị các nước có vùng đệm chính sách
hợp lý và giành được niềm tin của nhà đầu tư có thể dựa vào thị trường, chính
sách kinh tế vĩ mô để thoát khỏi chu kỳ kinh tế. Nếu không có nhiều dư địa hành
động, có thể bị buộc phải thắt chặt chính sách thuế hoặc nâng lãi suất để hút
vốn đầu tư.
Nếu cải thiện được viễn cảnh dài hạn thì các chương trình cải cách đáng tin cậy
sẽ tạo được niềm tin của nhà đầu tư và thị trường lâu dài. Qua đó sẽ kích hoạt
một vòng lặp tăng cường đầu tư kể cả đầu tư trong nước và tăng trưởng đầu ra
trong kỳ trung hạn.
Theo: thoibaokinhtevietnam