Vào
cuối năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dự báo tốc độ tăng trưởng GDP
của Việt Nam là 5,5%, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 124,3 tỉ USD, trong
đó nhập siêu tương đương 8% kim ngạch xuất khẩu, tức khoảng 10 tỉ USD,
bội chi ngân sách chiếm 4,8% GDP và lạm phát giữở mức 7 – 8%.
Báo
cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có một cái nhìn tương đối lạc quan về
tăng trưởng kinh tế trong năm 2013, khi dự kiến khiếm hụt cân thương mại
lên đến 10 tỉ USD, chỉ số lạm phát 8% và bội chi ngân sách 4,8% (so với
6,9% năm 2012), trong niềm hy vọng là các dự án sản xuất của khu vực
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân sẽ được khởi động lại, nhu cầu nhập
khẩu vật tư nguyên liệu, máy móc thiết bị gia tăng, lãi suất ngân hàng
giảm và tăng trưởng tín dụng sẽ giúp cho sản xuất và tiêu dùng trong
nước phục hồi, tạo điều kiện cho nguồn thu ngân sách nhà nước đạt kế
hoạch trong khi chi ngân sách vẫn gia tăng do các chương trình kích cầu
của Chính phủ.
Ở thời điểm kết thúc năm 2013, nhìn lại một năm
qua, chúng ta có thể thấy rằng kịch bản lạc quan đó đã không hiện thực.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi và giải pháp tháo gỡ
những khó khăn thách thức của một thời kỳ đình đốn kéo dài vẫn đang được
mọi người lo lắng chờ đợi.
Tăng trưởng GDP năm 2013 của Việt Nam
chỉ đạt 5,3%, lạm phát năm 2013 tăng 6,6%, thấp hơn so với mức dự báo
8% cho thấy tình trạng đình trệ vẫn chưa được giải tỏa, số lượng lao
động thất nghiệp đang gia tăng cùng với hàng chục ngàn doanh nghiệp tư
nhân phá sản.
Vào những tháng cuối năm, nhiều ngân hàng đã phải
cho nghỉ việc hàng ngàn nhân viên, một dấu hiệu cảnh báo cơn bệnh của
khu vực doanh nghiệp đã bắt đầu lây nhiễm đến hệ thống ngân hàng.
Tuy
nhiên, trong khi thị trường nội địa trầm lắng do khối cầu trong nước
suy giảm, ngành ngoại thương vẫn có những tăng trưởng nhất định. Theo Bộ
Công thương, năm 2013, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 132 tỉ
USD, tăng 15,3% so với 2012, nhập khẩu 132,5 tỉ USD, tăng 16,5% so với
2012. Riêng xuất khẩu của khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
đột biến, đạt 57 tỉ USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm
đến 43% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu năm 2013 là 500 triệu USD,
bằng 5% chỉ tiêu thâm hụt thương mại dự kiến 10 tỉ USD (nếu không tính
nhập vàng thoi sẽ là xuất siêu).
Như nhiều nhà quan sát kinh tế
nhận định, đây chưa phải là một dấu hiệu tích cực thể hiện sự cải thiện
cán cân thương mại vốn thường xuyên khiếm hụt lớn trong hai thập niên
qua. Hiện tượng nhập siêu giảm của năm 2013 không cho thấy một sự chuyển
hướng của ngoại thương Việt Nam từ nhập siêu sang cân đối và tiến tới
xuất siêu như mong đợi, mà chỉ là hậu quả của tình trạng đình trệ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư doanh,
nhiều dự án phát triển sản xuất của họ đang bị dừng lại, khiến cho nhu
cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu vật tư giảm sụt.
Mặt
khác tuy lãi suất cho vay giảm, khối lượng tín dụng ngân hàng đã không
tăng trưởng như mong muốn, tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng cao và nhiều doanh
nghiệp không muốn hoặc không thể tiếp cận được nguồn vốn vay từ hệ
thống ngân hàng.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2013 ước đạt
788,5 nghìn tỉ đồng, chỉ bằng 96,6% dự toán kế hoạch. Do đó, để duy trì
mức khiếm hụt ngân sách bằng 4,8% GDP như nghị quyết của Quốc hội, Chính
phủ đã tạm dừng các gói kích thích kinh tế và giảm đầu tư công để kìm
giữ tổng chi ngân sách nhà nước năm 2013 ở mức 950,5 nghìn tỉ đồng.
Tuy
vậy, trên cái nền xám của bức tranh kinh tế năm 2013, cũng có những sắc
hồng: đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký lên đến trên 20 tỉ USD,
tăng 65% so với 2012, trong đó đã giải ngân trên 10 tỉ USD, kiều hối đạt
mức kỷ lục 11 tỉ USD.
Hai yếu tố nói trên, cùng với mức nhập
siêu thấp và các khoản giải ngân ODA, đã góp phần chủ yếu vào việc ổn
định tỷ giá đồng Việt Nam so với USD (chỉ tăng khoảng 1% so với 2012)
đồng thời củng cố khối dự trữ ngoại tệ quốc gia ở mức tương đương ba
tháng nhập khẩu.
Năm 2014 có thể là một năm đầy kịch tính, khi các
khó khăn tích lũy từ những năm trước lộ diện dần, tạo nên những nút
thắt nguy hiểm cần phải được tháo gỡ để đưa vở kịch đình trệ kinh tế đến
hồi kết thúc.
Thị trường bất động sản chưa thể tan băng ngay
trong năm 2014 do khoảng cách cung cầu quá lớn, nhưng sự tăng trưởng
mạnh mẽ của FDI, những hoạt động M&A đối với những dự án đang đóng
băng cùng với sự giảm giá sâu của nhà đất và những biện pháp giải tỏa
không thể không làm về thủ tục hành chính, về thuế, về tín dụng ngân
hàng… sẽ là những tác nhân quan trọng giúp cho thị trường bất động sản
bớt đi vẻảm đạm vào cuối năm 2014.
Mặt khác, những biện pháp điều
chỉnh quyết liệt hơn từ phía Ngân hàng Nhà nước sẽ buộc các ngân hàng
yếu kém tham gia tích cực vào tiến trình sáp nhập hợp nhất, tạo điều
kiện cho việc xử lý nợ xấu một cách dứt khoát không để kéo dài ì ạch như
trong thời gian qua.
Các ngân hàng thương mại chắc chắn phải
trải qua một cuộc đại phẫu và không tránh được những mất mát, nhưng đó
là cái giá phải trả để hệ thống ngân hàng hồi sinh sau một cơn bạo bệnh,
trở nên lành mạnh hơn nhằm hoàn thành tốt vai trò mũi đột phá giúp nền
kinh tế hồi phục.
Việc Chính phủ xin Quốc hội chuẩn y mức khiếm
hụt ngân sách năm 2014 bằng 5,3% GDP và một mức trần nợ công lên đến 65%
GDP cho thấy một sự chuẩn bị nới lỏng chính sách tài khóa để xử lý các
khoản nợ tồn đọng của các doanh nghiệp nhà nước đồng thời đẩy mạnh đầu
tư công.
Chính sách tiền tệ cũng phải bớt thắt chặt với một mức
lãi suất ngân hàng tương đương năm 2013 hoặc thấp hơn nhằm thúc đẩy tăng
trưởng tín dụng ngân hàng đạt mức 12 – 14% trong năm 2014. Những nới
lỏng trong chính sách tài khóa và tiền tệ với mục tiêu kích thích tăng
trưởng có thể khiến cho lạm phát năm 2014 vượt con số 8%, tuy rằng giá
vàng giảm mạnh và tỷ giá đồng bạc Việt Nam được dự đoán sẽ khá ổn định,
chỉ tăng khoảng 1,1% trong năm 2014.
Điểm tỏa sáng trong năm 2014
là đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh, chiếm tỷ lệ lớn dần
trong tổng đầu tư của nền kinh tế. Tuy vậy, do đầu tư tư nhân tiếp tục
suy yếu, tổng đầu tư cũng chỉ đạt 30% GDP, trên cơ sở đó Ngân hàng Thế
giới dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2014 chỉ đạt 5,4% thay vì
5,8% như dự báo của Chính phủ.
Liệu nền kinh tế Việt Nam, trong
quá trình “rơi” qua các năm 2011, 2012, 2013, sẽ có thể chạm đáy vào năm
2014 để có thể bắt đầu phục hồi vào năm 2015 hay không vẫn là một câu
hỏi lớn hiện nay chưa có lời giải?
Nhưng lời giải không thể tìm
thấy ở bên ngoài, từ sự phục hồi của nền kinh tế thế giới, từ sự chuyển
dịch dòng vốn đầu tư quốc tế từ Trung Quốc sang các nước ASEAN hay từ cơ
hội kinh doanh và hợp tác mới cho Việt Nam qua việc tham gia Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào năm 2014. Lời giải căn bản nhất
và quyết định nhất cho tương lai phát triển kinh tế của Việt Nam phải
đến từ bên trong, từ điều mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gọi là “cơ chế
chính sách đột phá thúc đẩy phát triển”.
Ý nghĩa của đột phá là
phải tháo gỡ được những nút thắt, tạo được những chuyển biến tích cực.
Chẳng hạn, đột phá trong tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước không chỉ
nhằm thay đổi cơ cấu vốn, mà còn phải thay đổi cơ cấu nhân sự, mạnh dạn
sử dụng người điều hành có năng lực, kể cả thuê nhà quản trị chuyên
nghiệp từ nước ngoài để tăng cường hiệu quả hoạt động, tránh tham ô lãng
phí.
Đột phá trong lĩnh vực kinh tế tư doanh là thừa nhận một
cách thực chất vai trò quan trọng của kinh tế tư doanh trong sự nghiệp
phát triển kinh tế – một khu vực tạo công ăn việc làm cho 86% lao động –
đi kèm với những chính sách hỗ trợ hữu hiệu của Nhà nước về thuế, về
tín dụng, về môi trường pháp lý, đầu tư, về một sân chơi cạnh tranh bình
đẳng.
Đột phá trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ là việc xử lý
nợ xấu hay sáp nhập hợp nhất mà còn phải ngăn chặn hành động của những
cổ đông lớn thao túng ngân hàng, dùng tiền tiết kiệm huy động của nhân
dân làm nguồn vốn thâu tóm ngân hàng và dùng ngân hàng làm công cụ phục
vụ lợi ích riêng qua những hoạt động đầu cơ đầy rủi ro.
Có đột phá
mới có tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế là hàm số của tăng trưởng những
yếu tố khác: vốn đầu tư, kỹ năng và công nghệ, nguồn nhân lực, cơ sở hạ
tầng giao thông, viễn thông, năng lượng, y tế, giáo dục…
Nhưng
trên hết, đó là sự tăng trưởng của niềm tin, có được nó chúng ta chắc
chắn sẽ có được tất cả những điều còn lại. Đó là niềm tin của mọi doanh
nghiệp và của mọi người dân vào tương lai phát triển của doanh nghiệp và
cuộc sống an lành hạnh phúc mà họ tạo ra và được hưởng trên đất nước
này, vào tương lai cường thịnh lâu dài bền vững của toàn thể cộng đồng
dân tộc Việt.
Theo: doanhnhansaigon