Làng đa nghề
Đến
với làng Chuông thời gian này, nhiều không khỏi ngạc nhiên về sự đa
ngành nghề của nơi chuyên làm nón nổi tiếng bậc nhất miền Bắc. Sâu trong
làng, tiếng máy cưa, máy tiện của nghề làm lồng chim, tiếng máy may xập
xình, tiếng xào xạc phơi lá nón đan xen tạo nên thứ âm thanh hỗn độn.
Người dân làng Chuông bây giờ vẫn làm nón nhưng để mưu sống, họ buộc
phải làm thêm nhiều công việc khác.
|
Kinh tế khó khăn, người dân làng Chuông vẫn giữ nghề làm nón truyền thống song song với nhiều công việc khác để mưu sinh.
|
Theo nhiều người dân trong làng, cứ có nghề nào mới là mọi người đổ xô
vào làm, mới đầu thu nhập rất cao nhưng khi đã bão hòa thì lại tan đi
nhanh chóng. Đơn cử như nghề làm lồng chim, cách đây khoảng một năm, mỗi
chiếc lồng có giá từ 100.000 đồng đến 150.000 đồng mà vẫn liên tục cháy
hàng. Bây giờ giá đã giảm đi nhiều nhưng lại ế ẩm. Đó là lý do khiến
dân trong làng liên tục đổi nghề dù đây là làng nón truyền thống. Mặc dù
nón vẫn là mặt hàng thủ công chính ở đây nhưng do không sống được với
nghề nên người dân phải xoay đủ nghề để kiếm sống.
Khó khăn với nón
Cuộc sống hiện đại, người dân ít đội nón
hơn trước là lý do khiến đầu ra của làng nghề nón khó khăn. “Bây giờ
chỉ có ra làm đồng ruộng là thường xuyên thấy cảnh phụ nữ đội nón còn
lại hình ảnh của nó rất hiếm. Chưa kể, bỏ ra một khoản tiền hơn 50.000
để có một chiếc nón tốt không phải là chuyện dễ dàng với nhiều người.
Cùng số tiền đó có thể mua được vài chiếc mũ vải, bây giờ người đội mũ
nhiều chứ đội nón, kể cả nông thôn cũng ít gặp đi”, chị My, một người
thợ đan nón tâm sự.
|
Người dân làng Chuông tỷ mỷ hoàn thành từng chiếc nón.
|
Người làng nghề Chuông cho biết thêm, chiếc nón tốt trước đây bán với
giá 60.000 – 70.000 vẫn hết hàng, còn giờ giá mỗi chiếc chỉ 50.000 đồng
mà cũng rất khó tiêu thụ. Chợ làng Chuông nổi tiếng sầm uất một thời,
cứ vào phiên là ô tô các nơi ùn ùn tới để chở nón đi. Nhưng giờ, khung
cảnh đó không còn nữa. Chị Doan (người buôn nón) cho biết: “ Lượng tiêu
thụ nón ngày trước 10 phần giờ chỉ còn được 2 phần, thậm chí còn có một
phần thôi”.
Để làm ra một chiếc nón tốt, người làng Chuông phải mua nguyên
liệu từ tận miền Trung rồi chọn lá tốt, phơi lá thật khô, cuối cùng mới
là khâu nón. Bao nhiêu công đoạn tỷ mẩn, phức tạp nên dù giỏi đến mấy
thì mỗi người cũng chỉ làm được 2 chiếc mỗi ngày. Gặp phải những hôm
mưa, bão hay gia đình có việc thì coi như không làm được cái nào. Từ
người già đến trẻ nhỏ ở đây, hầu hết bàn tay ai cũng bị hằn những vết
kim đâm. Công việc vất vả mỗi ngày kéo dài liên tục từ sáng đến tận 9 -
10h giờ tối khiến nhiều người đau lưng, mắt kém, nhưng đổi lại thu nhập
mỗi ngày chỉ khoảng 40.000 đồng.
|
Từ người già đến trẻ nhỏ ở làng Chuông, hầu hết bàn tay ai cũng bị hằn những vết kim đâm vì làm nón.
|
Miền Trung mưa lụt nặng nề, người làm nón cũng chịu nhiều ảnh hưởng bởi
giá nguyên liệu tăng cao. Chị My kể “làm nón nhiều khó khăn lắm, có khi
không đủ ăn nhưng mà vẫn phải làm vì đây là nghề truyền thống của ông
cha để lại rồi”. Giờ làng Chuông hầu như chỉ còn người già và trẻ em
ngồi đan nón, cũng chẳng còn những hộ sản xuất lớn hay những nhà tiêu
thụ lớn ở đây nữa. Thanh niên – lực lượng lao động chính đã tìm đường ra
thành phố hoặc tìm nghề khác thu nhập cao hơn để làm.
Khó khăn là vậy nhưng người làng Chuông quyết không bỏ công việc
làm nón. Họ chỉ hy vọng có sự hỗ trợ từ bên ngoài để người dân bớt chật
vật hơn trong việc bảo tồn nghề truyền thống. Chị Doan, người trong làng
tâm sự: “Dù làm gì thì cuối cùng dân trong làng cũng sẽ quay về với
chiếc nón. Sản phẩm này đã gắn bó với người làng Chuông bao đời rồi,
thương hiệu dễ gì mà tạo dựng được như vậy”.
Theo: Trithuc