1.
Có một nghề trong tay, đó là dấu hiệu của một người đã trưởng thành, là
tấm giấy thông hành để vào đời. Không có nghề nghiệp, hay vô công rồi
nghề, có thể coi là điều nhục nhã của một người, chắc hẳn vì anh ta/ chị
ta cảm thấy mình bị đẩy ra bên lề xã hội, không được hòa nhập vào cộng
đồng nhân loại. Nói chung, ta phải tồn tại như một người có nghề nghiệp,
không phải chỉ để mưu sinh, mà còn là, và chủ yếu là để hiện thực hóa
bản tính làm người của mình.
Nghe như
điều đó là chân lý sắt đá, nhưng vẫn có tiếng nói khác thường. Thi sĩ
Hoelderlin (Đức) có lẽ là người duy nhất không coi trọng nghề nghiệp và
sự nghiệp khi ông nói: “Đã đành cuộc sống đầy sự nghiệp, nhưng hãy ở đời
như một thi sĩ”. Mà “làm thi sĩ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và
vơ vẩn cùng mây” (Xuân Diệu). Thi sĩ không màng, không tham dự vào việc
biến đổi thế giới này. Nhưng một quan niệm như thế giờ cũng đã lạc hậu.
Làm thơ, làm thi sĩ giờ đây đã trở thành một nghề hẳn hoi, chuyên
nghiệp. Thơ của họ thực sự đóng góp vào thế giới tinh thần của nhiều
người. Những buổi đọc thơ của họ giúp nâng cao trí tuệ và cảm xúc của
người yêu thơ. Và họ được vinh danh, được trả tiền cho công việc của
mình. Ngoài ra, họ còn dạy làm thơ nữa. Và công việc phức tạp cao cấp đó
rõ ràng là một nghề chuyên môn. Ngẫm nghĩ lại chúng ta thấy hình như
ông Hoelderlin muốn đề cao việc làm thơ, làm thi sĩ như là một siêu nghề
nghiệp, siêu chuyên môn, chứ không hẳn là bác bỏ việc người ta nên có
một nghề nghiệp hay sự nghiệp.
Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn
|
Tương tự, có
lẽ cũng rất ít người nghĩ rằng tu sĩ và các vị hành đạo cũng là một
nghề. Trái lại, họ là những người lo phần linh hồn và thế giới tâm linh
cho những người mộ đạo. Không có họ, nhiều người không biết làm gì lúc
chiều xuống, đêm về sau khi mọi việc gia đình xã hội đã xong, và những
xao xuyến siêu hình trong lòng họ dậy lên. Ai sẽ an ủi họ khi họ kề cận
cái chết và những hoàn cảnh khắc nghiệt khác nếu không phải là những
người có “chuyên môn” và “kỹ thuật” đặc biệt.
Ta
thường dễ nhận ra sự trống rỗng trong một ngôi nhà, trong một ngôi
làng, những sự thiếu thốn vật chất, tiện nghi chung quanh mình chứ ít
khi cảm thức được sự trống rỗng về tinh thần, về linh hồn trong một con
người và những hậu quả ghê gớm nó gây ra cho người ấy, và vì vậy chúng
ta không quen nghĩ đến những “nghề nghiệp” có khả năng lấp đầy những vực
thẳm chết chóc đó.
Nhưng ta sẽ không bàn sâu chuyện đó ở đây.
2.
Nghề nghiệp của mỗi người thường bắt nguồn từ năng khiếu (natural gift)
hay thiên hướng (vocation) của người đó. Nhưng thiên hướng hay năng
khiếu không thể tự nhiên theo thời gian mà biến thành một nghề nghiệp.
Người ta phải học tập để lấy kiến thức bên ngoài bổ sung củng cố, vun
bồi để nó phát triển lên, đúc kết dần dần thành một chuyên môn điêu
luyện của riêng ta. Có thiên hướng xuất chúng xuất hiện rõ ràng ngay từ
rất sớm ở một số người khi còn nhỏ. Và ta thường gọi đó là thần đồng,
chẳng hạn thần đồng âm nhạc Mozart. Nhưng đó chỉ là ngoại lệ hiếm hoi.
Phần đông chúng ta không nhận thấy rõ thiên hướng của mình mà phải nhờ
đến cha mẹ, thầy giáo và những người từng trải phát hiện chỉ ra giúp. Và
đó là nguồn cội của giáo dục. Như vậy có thể nói mục đích của giáo dục
là vun trồng cho muôn loài kỳ hoa dị thảo, mà ta là một trong số đó, nảy
nở ngập tràn trên trần gian này.
Một
khi chúng ta đã thấy rõ năng khiếu và thiên hướng của mình rồi, ta thấy
con đường trước mặt dường như mở ra thênh thang vô tận. Hãy đi theo con
đường đó cho đến khi bạn thành thạo đến độ có thể nhắm mắt mà đi vẫn
tới đích. Có nghĩa là hãy làm đúng cái nghề mà ta có khả năng nhất vốn
đã bộc lộ ngay từ khi còn nhỏ. Ta sẽ thấy hạnh phúc vì được là mình,
được trở nên chính mình, như triết gia Đức Martin Heidegger từng nói:
“Deviens ce que tu es” hay gần đây là lời kêu gọi của ban nhạc huyền
thoại Bee Gees: “Be who you are”. (Cả hai câu nói đều có nghĩa gần giống
nhau là: “Hãy trở nên chính mình”). Đến đây, dường như chúng ta đã chạm
tới một câu ngạn ngữ Việt Nam: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
Câu nói ấy thời nay còn đúng nữa không?
Thường
thì chúng ta không được trời cho cùng lúc nhiều năng khiếu hay thiên
hướng khác nhau. Mỗi người chỉ có một dấu hiệu nổi trội, ban đầu còn mờ
nhạt, dần dần theo thời gian mà rõ lên. Có thể diễn dịch câu ngạn ngữ
Việt đó theo hướng này: khi đã tinh thông một nghề, thì cái “thân” hay
“bản ngã” (identity) của ta được vinh hiển, tức là ta được làm người
trọn vẹn. Cái từ “làm người” trong tiếng Việt rất hay. Không phải “to be
human” mà là: làm người. Nghĩa là tính cách “người” luôn gắn với tính
cách “làm”, tức là làm người và làm nghề là một. Nói cách khác, không
“làm” hay chưa làm một nghề tinh thông, ta chưa xứng đáng với bản tính
người của ta. Ta không thể hình dung ra một người trưởng thành về lý trí
mà lại không có nghề. Nếu có một người như thế, hẳn đó là một người
không may, họ bị khuyết tật từ nhỏ. Càng tinh thông một nghề, sự hiện
diện của ta trong xã hội, trong cộng đồng càng rõ ràng và độc đáo. Đó có
thể là ý nghĩa của chữ “vinh”.
Nhưng
đấy có thể chỉ là cái nhìn trừu tượng. Nhìn dưới diễn trình lịch sử,
nhiều người sẽ phản đối quan điểm đó. Vì trong thực tế, sự phát triển
của công nghệ - máy móc ngày càng làm cho nhiều người trở nên vô dụng,
mất công ăn việc làm, nhiều ngành nghề truyền thống bị mai một, chẳng
hạn, những nghề thủ công mỹ nghệ… Một số người lành nghề (nghệ tinh)
trong các địa hạt ấy không thấy mình vinh hiển (thân vinh) nữa. Họ chỉ
còn ngậm ngùi nghĩ về một thời vang bóng.
Một
lần nữa, vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Có rất nhiều nghề thủ
công không bao giờ có thể mất đi được, ví dụ: nghề làm kim hoàn, sửa
đồng hồ, hớt tóc, đan len, trồng hoa, trang điểm…
3.
Làm bất cứ nghề gì mà mỗi ngày đều cố gắng làm tốt hơn, hoặc giữ không
để cho nghề mình bị xuống cấp, thì đều đáng tôn trọng, dù đó là công
việc khó khăn phức tạp của một bác sĩ phẫu thuật hay công việc đơn giản
của một người phục vụ quán cà phê. Họ là những người tự trọng, tức là
biết tôn trọng cái nghề nuôi sống mình, đóng góp cho xã hội, và là cái
bản tính thứ hai của mình. Người Anh có câu: It’s NOT the job you DO,
It’s HOW you DO the job. Đó chính là sự chuyên nghiệp. Người Pháp thì
nói: Il n’y a pas de sot métier (Không có nghề nào xấu.) Là một người
thợ mộc và đóng những chiếc ghế gỗ vừa đẹp, vừa chắc chắn để có thể sử
dụng lâu dài thì đáng kính trọng hơn một chính trị gia tham nhũng và đưa
ra những chính sách sai lầm. Đơn giản là hãy làm một người thợ mộc
lương thiện trong sáng thay vì một chính khách bụng dạ đen tối. Có một
người thợ mộc như thế tên là Joseph ở một vùng đất hẻo lánh xa xôi trên
đất Do Thái thời xa xưa. Ông Joseph sống tử tế, làm nghề đàng hoàng
khiến “đức Chúa trời” cảm động và người đã cho con một yêu dấu của mình
là Jesus xuống đầu thai trong lòng bà Maria, vợ của ông Joseph. Mặt
khác, từng có những nhà chính trị khét tiếng xấu xa ở xứ mình vì lợi ích
riêng tư mà phạm tội để rồi mãi mãi bị người đời sau phỉ nhổ. Họ đã
không yêu nghề của họ, mà chỉ lợi dụng nghề đề mưu lợi riêng tư.
Có
một nghề trong tay là sự khởi đầu công cuộc làm người của mình, hoặc
nói cách khác, với một nghề trong tay, chúng ta như một cái bình rỗng
được rót đầy. Nghề nghiệp là cánh tay nối dài của ta, để ta nắm bắt được
nhiều hơn cuộc sống, thu lượm được nhiều hơn hoa trái, và cũng để giúp
đỡ nhiều hơn mọi người chung quanh.
Theo: Đại Biểu Nhân Dân