Những "tín hiệu" khả quan
Trên cơ sở đề án 1956 của
Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Lâm Ðồng đã phê duyệt "Ðề án đào tạo nghề
cho lao động nông thôn tỉnh Lâm Ðồng đến năm 2020". Theo đó, bằng mọi
hình thức, mỗi năm sẽ đào tạo khoảng 26 đến 27 nghìn lao động nông thôn.
Trong đó, chú trọng ưu tiên các đối tượng chính sách, đồng bào dân
tộc thiểu số, như hỗ trợ một phần tiền sinh hoạt hằng ngày khi tham gia
khóa học, được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay để học
nghề và tạo việc làm...
Ðến nay, các Phòng Lao động - Thương binh
và Xã hội (LÐ-TB-XH) trong tỉnh đã có cán bộ chuyên trách công tác dạy
nghề. Các cơ sở dạy nghề có khoảng 170 giáo viên, cán bộ kỹ thuật, nghệ
nhân tay nghề cao. Tỉnh cũng đã đầu tư hơn 16,27 tỷ đồng cho trang,
thiết bị dạy nghề. "Các chương trình đào tạo nghề không còn là các buổi
học lý thuyết, mà được tích hợp vào thực tế trên đồng ruộng, vườn
cà-phê... hoặc tại xưởng". - Trưởng Phòng Dạy nghề, Sở LÐ-TB-XH Lâm Ðồng
Lê Quang Hân cho biết.
Theo Sở LÐ-TB-XH Lâm Ðồng, sau ba năm
triển khai đề án, địa phương đã có 56 cơ sở dạy nghề công lập và ngoài
công lập tổ chức các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Theo đó,
tỉnh đã tổ chức 714 lớp đào tạo nghề tại 111/118 xã cho 20.263 học viên
(chưa tính các học viên được dạy nghề tại các hộ ngành nghề, cơ sở dịch
vụ), tỷ lệ tốt nghiệp đạt hơn 96%, với 24 nghề thuộc ba nhóm ngành nghề
chính là nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Trong đó, có
hơn 50% các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số theo học. Và
từ năm 2006 đến nay, số lao động là người dân tộc thiểu số đã qua đào
tạo nghề, được tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp, dự án vùng
đặc biệt khó khăn của tỉnh Lâm Ðồng là hơn 5.100 người, với mức thu nhập
bình quân khoảng 24 triệu đồng/người/năm.
Bí thư Ðảng ủy xã Ðưng
K’Nơh (huyện Lạc Dương) Bon Niêng Ha Ðăng cho biết: Xã đa số là đồng
bào dân tộc thiểu số, phần đông đã được cấp đất sản xuất với diện tích
trồng trọt khoảng 600 ha. Nhờ chính sách dạy nghề của Ðảng và Nhà nước,
sự "chỉ bày" cụ thể của cán bộ huyện mà bà con đã có thêm kiến thức
trong sản xuất nông nghiệp. Mấy tháng đầu năm 2013, bà con xã mình đã
được tham gia bốn lớp học nghề chăm sóc cà-phê.
Với phương thức
"cầm tay chỉ việc", qua các lớp dạy nghề, đã có nhiều bà con dân tộc
thiểu số biết áp dụng kiến thức đã học vào hoạt động sản xuất của gia
đình và thôn buôn. Về mặt xã hội, đề án dạy nghề cho lao động nông thôn,
trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số không những tác động tích cực đến
việc giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập mà còn góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phó Chủ tịch UBND huyện Lạc
Dương Nguyễn Quốc Kỳ cho biết: Ðối với đồng bào dân tộc ở vùng sâu,
vùng xa của huyện, chúng tôi vận dụng phương pháp "cấp gì dạy nấy". Như
cấp bò, cây cà-phê, chuối, phân bón... cho bà con xong, chúng tôi tổ
chức luôn lớp hướng dẫn thực hiện, nhờ vậy mà đạt hiệu quả rất cao.
Qua
khảo sát thực tiễn cho thấy, sau khi tham gia các khóa học nghề, bà con
đồng bào dân tộc thiểu số đã có những bước tiến rõ rệt từ kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, năng lực làm chủ máy móc, đến tác phong lao động. Nhờ
đó, có khoảng 85,5% học viên sau khi tốt nghiệp đã tìm được việc làm,
hoặc mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất theo các mô hình mới, làm
giàu ngay trên quê hương mình.
Chuyển biến bước đầu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dưới
chân núi LangBiang (huyện Lạc Dương) ngày nay đã xuất hiện nhiều nhà
kính trồng rau, hoa công nghệ cao. Ðang điều chỉnh hệ thống phun tưới tự
động cho vườn rau của gia đình, anh Ða Gout Noa (dân tộc Cơ Ho, xã Lát)
thổ lộ: "Ðể làm được nông nghiệp công nghệ cao như bây giờ, mình may
mắn được tham gia nhiều lớp tập huấn do các ngành chức năng tổ chức".
Ðến nay, mô hình sản xuất rau theo hướng nông nghiệp công nghệ cao của
gia đình anh đã trở thành "mô hình điểm" để các hộ đồng bào dân tộc tại
địa phương đến học hỏi.
Cách vườn Ða Gout Noa không xa, tôi gặp
anh Cil Nôm (dân tộc Cơ Ho, thôn Bon Ðơng 1, Lạc Dương), điển hình tiên
tiến tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước tỉnh Lâm Ðồng, giai
đoạn 2008 - 2013, anh cho biết: Trước đây mình làm ruộng, mỗi năm một
vụ, không đủ sống. Chưa biết tính toán làm gì để nuôi bốn đứa con ăn
học, may mắn được đi học lớp sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn
VietGAP, thế là chuyển sang trồng dâu tây, cà-rốt và hoa theo công nghệ
cao. Giờ thì không lo con bị thất học nữa rồi.
Dải nhà kính tít
tắp, trải dài theo con đường nhựa chạy dọc thôn Bon Ðơng 1, Cil Nôm chỉ:
nào là vườn của Krajan Théo với gần một sào hoa cẩm chướng, vườn Păng
Ting Sin hơn một sào bông hồng... đều được canh tác theo hướng công nghệ
cao. Nó học VietGAP cùng mình cả đấy. - Cil Nôm nói.
Rời thôn
Bon Ðơng 1, rời các nhà vườn sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tôi
gặp trưởng thôn Ðăng Gia Dit B (xã Lát, Lạc Dương), ông Ha Sell cho
biết: Mỗi năm, thôn mình tổ chức được ba lớp học nghề chăm sóc cà-phê,
nhờ vậy mà đồng bào mình biết cách ủ phân, tỉa và ghép cành... Bỏ cách
sản xuất lạc hậu rồi, cách mới đạt năng suất cao lắm. Về huyện Lâm Hà
trong ngày nắng gắt, chúng tôi gặp ông Ha Ba (xã Mê Linh), tranh thủ
tưới vườn cà-phê đang mùa chớm nụ, ông cho hay: Nhiều năm rồi cứ loay
hoay chuyển đổi cây trồng nhưng vẫn nghèo, giờ phải bám lấy cây cà-phê.
Nhà mình nhiều người được học cách chăm bón nó rồi, yên tâm hơn rồi.
Tiếp
tục hành trình, chúng tôi cảm nhận được sự đổi thay trên những con
đường đất đỏ ba-dan trù phú ở vùng đồng bào dân tộc nơi đây. Không những
đồng bào Cơ Ho, Châu Mạ, mà những dân tộc anh em khác cùng sinh sống
trên mảnh đất Nam Tây Nguyên đều được địa phương hỗ trợ học nghề. Anh
Thào Hùng Khải chia sẻ: Chẳng những được chỉ dẫn trồng cà-phê, làng Mông
mình còn được học nghề may công nghiệp, đan len và đang mở hai lớp học
đan dây bèo đấy.
Còn nhiều trăn trở
Giám đốc Sở
LÐ-TB-XH Lâm Ðồng Trương Ngọc Lý trăn trở: Ðầu tiên là nguy cơ phá vỡ cơ
cấu nguồn nhân lực rất lớn, do "vướng" trong phân luồng đào tạo, học
nghề là sự lựa chọn thứ yếu; từ đó sẽ lãng phí nguồn nhân lực đào tạo,
dư thừa cử nhân. Rồi đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất phục vụ dạy nghề
đang thiếu và yếu; việc duy trì sĩ số các lớp học nghề đối với đồng bào
dân tộc thiểu số rất khó khăn. Và điều đáng lưu ý là có một số nghề chưa
gắn liền với thực tiễn, người học nghề sau khi tốt nghiệp không có việc
làm hoặc khó kiếm việc làm. Bên cạnh đó, hiện Lâm Ðồng "dư" hai nghìn
lao động có trình độ cử nhân, có người tốt nghiệp đại học đi làm bảo vệ.
Việc phân luồng đào tạo các địa phương không làm được, mà phải có chủ
trương của Nhà nước, Chính phủ".
Trưởng phòng LÐ-TB-XH huyện Ðạ
Huoai (Lâm Ðồng) Tăng Xuân Sóng cho biết: Các ngành nghề phi nông nghiệp
hầu như không có người học, vì nhu cầu sử dụng lao động phi nông nghiệp
trên địa bàn huyện rất ít. Trong khi đó, một số nghề mà học viên có nhu
cầu thật sự lại không có trong danh mục đào tạo nghề. Từ đó, dẫn đến
tình trạng "thừa mà thiếu" lao động ở nhiều huyện trong tỉnh.
Không
riêng các cơ sở dạy nghề, tại Trường Cao đẳng nghề Ðà Lạt, hằng năm
tuyển khoảng một nghìn học sinh, trong đó có 20% là con em đồng bào dân
tộc thiểu số cũng chung tình trạng. Hiệu trưởng Trương Thúc Hiếu cho
biết: Trường có tám khoa, sáu ngành học, trong đó có Khoa dân tộc nhằm
giúp các em bồi dưỡng thêm kiến thức ngoài chương trình học chung, nhưng
cũng khó duy trì được sĩ số. Có thể do sự tư vấn, hướng nghiệp cho học
sinh trong việc học nghề chưa đạt hiệu quả, thiếu hệ thống theo dõi,
điều tra tổng hợp và phân tích về lao động việc làm, nên thiếu thông tin
và cơ sở khoa học để xác định chỉ tiêu kế hoạch về lao động và việc làm
hằng năm.
Qua thực tế cho thấy, ngoài chất lượng, thì việc dạy
nghề tại Lâm Ðồng chưa gắn kết các chương trình, mục tiêu KT-XH của địa
phương với nhu cầu người học nghề, sự liên kết với các doanh nghiệp
trong việc xã hội hóa công tác đào tạo nghề chưa cao, quy mô đào tạo nhỏ
lẻ, nguồn lực tài chính chưa tương xứng với nhu cầu học nghề, số nghề
đào tạo hiện đáp ứng chưa đến một nửa so với nhu cầu đăng ký của nông
dân, trong đó có số đông là đồng bào dân tộc.
Các làng nghề truyền
thống cũng được mở nhiều lớp truyền nghề, nhưng thế hệ trẻ rất ít quan
tâm đến nghề gia truyền của cha ông, nguy cơ thất truyền đang hiển hiện
từng ngày. Anh Ya Tuất, nghệ nhân duy nhất còn "giữ" được nghề làm nhẫn
bạc của người Churu (Tu Tra, Ðơn Dương) thổ lộ: Mấy lần mình mở lớp
truyền nghề cho thanh niên trong buôn nhưng không thành, bọn nó không
chịu học cái nghề của cha ông nữa. Bọn nó bảo, học cái nghề này không no
được cái bụng.
Tỉnh Lâm Ðồng có hơn 40 dân tộc anh em sinh sống,
chiếm khoảng 24% dân số toàn tỉnh. Trong những năm qua, địa phương đã nỗ
lực trong công tác dạy nghề gắn với chương trình xây dựng nông thôn
mới, chú trọng đến lớp thanh niên đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên,
để việc đào tạo nghề phát huy hiệu quả, rất cần sự vào cuộc đồng bộ của
cả hệ thống chính trị, sự thay đổi tư duy của người dân về định hướng
nghề nghiệp... Ðó đang là những vấn đề đặt ra không chỉ riêng cho tỉnh
Nam Tây Nguyên - Lâm Ðồng.
Sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Lâm Ðồng trong giờ thực hành.
Theo: Nhân Dân