Mới ngoài 20 đến dưới 30
tuổi, những cô gái trẻ miền xuôi lên rừng cắm bản dạy học trong điều kiện vô
cùng thiếu thốn, khắc nghiệt. Bằng nghị lực, lòng yêu nghề, các cô đã vượt qua
khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, xóa đi cái sự “trắng” mầm non ở những vùng
núi, biên giới; chắp cánh ước mơ bao thế hệ trẻ em.
NGƯỜI CỦA “GIÀNG”
Xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình là một trong những địa phương
nghèo khó, heo hút nhất của tỉnh. Từ TP.Đồng Hới, chúng tôi đi xe máy theo
đường rừng núi hiểm trở, phải mất ba giờ mới đến được trung tâm xã. Đứng trước
trụ sở UBND xã đã nghe tiếng trẻ bi bô học bài, hát hò, chơi đùa trong ngôi
trường mầm non Tân Thượng Trạch gần đó. Trường có cả thảy 10 cán bộ, giáo viên,
phụ trách dạy học cho con em chủ yếu là hai tộc người Ma Coong và người A Rem
của hai xã Thượng Trạch và Tân Trạch.
Tôi thắc mắc vì sao ngày chủ nhật mà vẫn dạy và học, cô Hồ Thị Loan, hiệu phó
cho biết: “Đây là đặc thù của việc dạy và học ở miền núi. Các giáo viên đều là
người miền xuôi, dạy liên tục trong 10 ngày rồi lại nghỉ 4 ngày để về lấy lương
thực, thực phẩm lên, tranh thủ thăm nhà. Dạy học trên này khổ lắm! Thiếu thốn
đủ thứ! Ở đây còn đỡ chứ vào trong các bản mới biết nỗi khổ của nữ giáo viên
mầm non”.
Đường vào bản Cờ Đỏ quả là cực hình khi chúng tôi phải
đi bộ qua nhiều quả đồi, khe suối. Lớp mầm non ở đây là một ngôi nhà bằng gỗ
rất sơ sài. Đón chúng tôi, hai giáo viên Nguyễn Thị Minh (33 tuổi) và Hoàng Thị
Kiều (22 tuổi) mừng rỡ khôn xiết.
Cô Minh và cô Kiều dạy học
đã năm thứ hai ở Cờ Đỏ. Riêng cô Minh có thâm niên gần chục năm dạy học, luân
chuyển hàng năm từ bản này sang bản khác ở cùng miền núi của huyện. “Những ngày
đầu lên, điều kiện sinh hoạt khó khăn lại nhớ nhà nên mình đã khóc rất nhiều. Nhưng
dần rồi cũng quen và cố gắng dạy học”, cô Minh chia sẻ.
Cô giáo và lớp mầm non ở bản Cờ Đỏ, xã Thượng Trạch
Đối với cô Kiều, ngày đầu
lên Cờ Đỏ, ấn tượng đáng nhớ nhất là trẻ em khi thấy các cô đã khóc òa lên. “Vì
các em ở trong rừng, ít tiếp xúc với người miền xuôi nên thấy lạ và sợ”, cô
Kiều cho biết.
Trưởng bản Đinh Phuôn nhớ lại: “Ngày đó, dân bản rất ngỡ ngàng trước hai cô
giáo còn trẻ lại mạnh dạn vào đây và ở lại luôn để dạy học. Trước đây, họ chỉ
thấy thầy giáo chứ đối với cô giáo thì thật kỳ diệu. Có người nghĩ họ do Giàng
(ông Trời) đưa xuống. Nhưng nhìn kỹ thì thấy các cô cũng là người như thiếu nữ
ở bản mình. Chỉ khác là các cô giáo trắng trẻo hơn, mái tóc dài hơn, xinh đẹp
hơn, nói nhiều hơn và hát hay hơn”.
Bữa ăn đạm bạc làm vội được hai cô giáo dọn ra, khách lẫn chủ ăn một cách dè
chừng vì thấy là lạ và ít ít. Đó là nồi cơm, ít cá khô, bát nước mắm, muối ớt,
nồi canh “toàn quốc” với gói mì tôm, lẽo bẽo rau rừng. Hàng ngày, các cô đều ăn
uống đạm bạc, thiếu thốn như thế; nên cô nào cũng gầy ốm.
Ở nơi mà người dân còn đói nghèo, lạc hậu, sự học còn chưa được chú trọng nên
thời gian đầu, các cô rất vất vả trong việc tuyên truyền, vận động học sinh.
Những đứa trẻ trần truồng, nhem nhuốc vốn quen lăn lộn, cùng cha mẹ lên nương
rẫy. Đến lớp, nhiều em khóc thét lên khiến các cô phải mất nhiều thời gian,
công sức dỗ dành. Nhưng dần dần rồi mọi chuyện được khắc phục. Đồng bào hiểu
biết cái lợi ích trong việc cho con em đến trường để học cái chữ, học phép
tính, học hát... tiếng Việt - những điều mà các thế hệ trước ở bản Cờ Đỏ không
hề biết. Trẻ em người Ma Coong ở đây đi học không tốn tiền. Các cháu còn được
phát miễn phí giấy vở, bút mực, đồ chơi. Còn cô giáo thì lấy cả một phần lương
của mình mua bánh kẹo để khuyến khích và thưởng cho học trò. Biết ơn đó, bà con
thỉnh thoảng mang cho các cô ít rau, cá hay chút thịt kiếm được trên nương rẫy,
trong rừng.
Cô Hồ Thị Loan, Hiệu phó Trường mầm non Tân Thượng Trạch, cho biết: “Trong
tháng, cứ vài lần hoặc có giáo viên, học sinh đau ốm đột xuất thì hiệu trưởng,
hiệu phó lại đích thân vào bản để thăm hỏi, động viên, tìm cách giải quyết các
công việc. Có khi muốn đi từ bản này sang bản khác ở trong cùng một xã, phải
mất nửa ngày đường luồn rừng, lội suối. Tuy nhiên bọn mình vẫn đi. Những lúc có
giáo viên đau ốm, người quản lý cũng ở lại bản dạy thay”...
HY SINH THẦM LẶNG
Rời bản Cờ Đỏ, chúng tôi lại đi bộ trở ra đường lớn rồi lên xe máy đi ngược về
Km39 của đường 20 Quyết Thắng để vào xã Tân Trạch. Xã này cùng với Thượng Trạch
là hai địa phương khốn khó, xa xôi nhất của huyện Bố Trạch và tỉnh Quảng Bình.
Cộng đồng tộc người A Rem sống tập trung trong những căn nhà do Nhà nước xây
dựng trong một thung lũng thuộc vùng lõi của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.
Nơi đây có hai giáo viên mầm non là Cao Thị Niên (27 tuổi) và Trương Thúy Hằng
(23 tuổi) cắm bản dạy học. Lớp học từng là nhà cộng đồng của bản A Rem, nằm sát
bên bìa rừng. Hai cô giáo trẻ được lãnh đạo xã bố trí cho ở trong một nhà dân.
Các cô sống, sinh hoạt trong cảnh không có điện, không nước sạch, không chợ...
Khi con gà vừa gáy, trời còn tờ mờ, hai cô giáo đã dậy. Họ lục tục lấy bình, dò
dẫm ra suối lấy nước về dùng, sinh hoạt trong ngày. Sau khi dọn dẹp nhà cửa,
làm vệ sinh cá nhân, các cô đun sôi nước suối chế mì tôm, bỏ thêm vào ít rau
rừng, ít muối, ớt để làm bữa sáng.
Bữa ăn đạm bạc của giáo viên mầm non cắm bản
Mặt trời còn chưa mọc,
sương mù còn vắt vẻo trên những sườn núi quanh bản, các cô đã rời khỏi nhà.
Chúng tôi băn khoăn, các cô nói “các anh đi theo thì biết”. Hai cô quay lưng đi
hai ngả đường. Tôi đi phía sau cô giáo Niên. Đi được khoảng 50 bước chân là gặp
một nhà dân. Cô Niên đến trước nhà, nhìn vào gian bếp có một chị phụ nữ đang
nhóm lửa:
“Chị Y Hiêng ơi! Cho các cháu đi học nhé”!
“Chúng nó còn chưa ngủ dậy cô Niên ơi. Mình cũng vừa dậy đang nấu cơm ăn để lên
rẫy. Khi mô ăn xong mình đưa con lên lớp”, chị Y Hiêng đáp.
Sau khi dặn chị Y Hiêng nhanh cho con đến lớp, cô Niên lại rảo bước sang nhà
bên cạnh. Có những gia đình còn chưa ngủ dậy nên cô Niên lại báo thức mọi
người. Cứ thế cô đi đến khoảng hai chục gia đình để gọi trẻ đi học. Cô Hằng
cũng với những việc làm như thế.
Hai cô giáo trẻ đã cùng gần chục công chức người đồng bằng lên đây công tác góp
phần khai sáng văn minh cho cộng đồng tộc người A Rem. Bà con vốn là những
người sống trong hang đá, dù đã về ở tập trung tại đây hàng chục năm nhưng vẫn
chưa ổn định cuộc sống, chủ yếu còn dựa vào núi rừng, thiên nhiên và trợ cấp
của Nhà nước.
Đêm xuống ở những bản làng có giáo viên mầm non dạy học, mọi người quây quần
nói chuyện đến khuya dưới ánh đèn dầu tù mù. Thỉnh thoảng những tiếng thú rừng,
tiếng chim quạ, côn trùng kêu khiến ai nấy cũng rợn người. Nhưng các cô bảo, đã
quen lắm rồi, không sợ nữa. Bên ánh sáng yếu ớt, những thước phim quay chậm về
cuộc đời đầy gian nan, phận nữ cực khổ, tình duyên lận đận của các cô khiến
chúng tôi không khỏi ngậm ngùi. Thẳm sâu trong những câu chuyện, họ mong muốn
có được hạnh phúc gia đình.
Ngày mới ra trường đi nhận công tác, chắc chắn các cô còn háo hức. Sau một thời
gian dài cắm bản thì sức khỏe, thân hình héo hon. Tuổi thanh xuân hao mòn nên
tình duyên, hạnh phúc gia đình riêng cũng gập ghềnh, khó nói. Đó là tình cảnh
chung của những nữ giáo viên cắm bản dạy học tại hai xã Tân Trạch và Thượng
Trạch.
Theo: conganTP.HCM