“Hiện nay cũng như trong thời gian tới, ngành giáo dục và đào
tạo không nên tập trung mọi nỗ lực nhằm thoả mãn tối đa các mục tiêu dân
trí”.
Ngoài “hàn lâm” còn phải có “công nghệ”
Kinh nghiệm thế giới cho thấy muốn đẩy
mạnh kinh tế của một quốc gia không phải chỉ cần có các nhà khoa học,
các giáo viên, kỹ sư, các nhà kinh doanh, nhà quản lý... mà còn phải có
đội ngũ đông đảo các công nhân, kỹ thuật viên lành nghề, các nhà công
nghệ; nói khác đi là còn cần phải có một đội ngũ nhân lực phong phú,
thạo việc và đồng bộ trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Bởi vậy, trong khu vực giáo dục đại học
nếu chỉ chú ý phát triển phân hệ giáo dục hàn lâm (Academic/ University
Education) chú trọng cung cấp kiến thức lý luận cho người học như ở
Việt nam hiện nay thì chưa đủ, nhất là khi đã triển khai các công nghệ
cao.
Một đặc điểm hết sức quan trọng của giáo
dục sau trung học tại các quốc gia " Con rồng Châu Á" là bên cạnh phân
hệ giáo dục hàn lâm (chứ không phải phân hệ giáo dục đại học nghiên cứu
như nhiều người vẫn gọi) còn có phân hệ giáo dục công nghệ
(Technological Education), cho phép các trường công nghệ nhấn mạnh kỹ
năng thực hành và khía cạnh huấn luyện của giáo dục công nghệ, và cũng
cho phép các trường uyển chuyển hơn trong vấn đề thiết kế nội dung
chương trình đào tạo để đáp ứng các nhu cầu của thị trường nhân lực một
cách nhanh chóng hơn.
|
Ảnh minh họa. |
Hai phân hệ này sẽ rất khác biệt về cấu
trúc nội dung chương trình đào tạo cũng như về tiêu chuẩn đội ngũ giảng
viên, cơ sở vật chất, chi phí đào tạo...Nhờ có được cả 2 loại nhân lực ở
trình độ đại học như vậy nên các nước này đã rút ngắn được tiến trình
công nghiệp hoá của mình, lẽ ra phải diễn ra trong hàng thế kỷ, song
trên thực tế chỉ cần vài ba thập kỷ.
Thực hiện triệt để phân luồng sau THCS
Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội
của đất nước đã định rõ sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước ta phải được
hoàn thành trước năm 2020. Do đó, Giáo dục và Đào tạo Việt nam không thể
lặp lại những bước đi cổ truyền mà phải mạnh dạn tìm ra những cách đi
hoàn toàn mới. Kinh nghiệm chuẩn bị nguồn nhân lực của nhiều quốc gia
trong khu vực và thực tiễn Việt Nam những năm vừa qua cũng như sự chỉ
đạo từ Nghị quyết Trung ương 8 vừa mới đây có thể giúp ta sớm xác định
cho mình cách đi thích hợp.
Chiến lược giáo dục của Việt Nam cần
được định ra qua một số bước theo nguyên tắc: Giáo dục đi trước một bước
(mặc dù phải chấp nhận nguồn lực hạn hẹp) để tạo ra nguồn nhân lực đồng
bộ, lành nghề, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển (kể cả tạo điều kiện
thuận lợi để gọi vốn đầu tư). Nhờ vậy ngân sách Nhà nước mới tăng kéo
theo tăng ngân sách cho giáo dục…
Với các bước đi như vậy nên không thể có
một lời giải đúng đắn duy nhất mà chỉ có một loạt những lời giải tối
ưu cho từng thời gian khác nhau đối với bài toán quy hoạch phát triển
giáo dục và đào tạo của Việt nam.
Hiện nay cũng như trong thời gian tới,
ngành giáo dục và đào tạo không nên tập trung mọi nỗ lực nhằm thoả mãn
tối đa các mục tiêu dân trí. Do đó cần xem xét lại cơ chế phân bổ ngân
sách giáo dục theo hướng ưu tiên đầu tư đồng thời vào 2 mục tiêu: Phổ
cập giáo dục cơ bản (bao gồm giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ
sở) và Đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề (bao gồm các trình độ
đào tạo đại học, cao đẳng,trung cấp chuyên nghiệp và đào tạo nghề) cho
sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện thế giới đang hướng tới một nền kinh
tế tri thức.
Ngành giáo dục và đào tạo trong những
năm tới cũng không nên chạy theo hướng tập trung đầu tư bằng mọi giá để
hy vọng sớm có được một số cơ sở giáo dục đại học tinh hoa đạt thứ hạng
quốc tế. Điều này rất khó thực hiện và cho dù nếu có thực hiện được thì
cũng không tạo ra sự thay đổi đáng kể nào cho chất lượng của đội ngũ
nhân lực đất nước.
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp
Nhà nước phải có cơ chế chính sách rõ ràng để định hướng cho sự phát
triển hài hòa và ổn định của toàn hệ thống giáo dục đại học và chuyên
nghiệp, thông qua phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và hiệu quả của toàn
hệ thống, đặc biệt đối với khu vực trường trực thuộc Trung ương (nhận
ngân sách giáo dục Nhà nước), trên cả 2 phương diện: mạng lưới trường và
quy trình đào tạo. Thiết lập cơ chế mở, liên thông đào tạo, kiên quyết
xoá bỏ tình trạng khép kín, cát cứ, tư tưởng cục bộ ở từng trường hoặc
từng ngành trong hệ thống như Nghị quyết Trung ương 8 vừa chỉ ra.
Trong khu vực giáo dục đại học, bên cạnh
phân hệ giáo dục hàn lâm đã có cần nhanh chóng xây dựng bổ sung phân hệ
giáo dục công nghệ. Thực hiện triệt để phân luồng học sinh sau THCS và
nâng cấp các trường THCN-DN mạnh, kết gắn với các trường đại học và cao
đẳng, các cơ sở nghiên cứu khoa học ứng dụng để sớm hình thành một hệ
thống trường công nghệ mới (đào tạo ở các trình độ trung học nghề, cao
đẳng, cử nhân và sau đại học, kể cả đào tạo giáo viên dạy nghề), đáp ứng
nhu cầu nhân lực công nghệ đa dạng cho sự nghiệp CNH, HĐH. Cơ sở vật
chất của loại hình trường này rất tốn kém, do đó Nhà nước cần ưu tiên
vay vốn từ nước ngoài để triển khai công việc đó.
Phải gắn mục tiêu giáo dục công nghệ với
các mục tiêu CNH, HĐH đất nước, với trình độ công nghệ ở từng giai
đoạn, từng lĩnh vực ngành nghề cụ thể, kết hợp hợp lý giữa các ngành
nghề kỹ thuật cao, mũi nhọn với các ngành nghề truyền thống... để tạo
ra một cơ cấu nhân lực hợp lý, lành nghề; hạn chế đào tạo tuỳ tiện gây
lãng phí và làm gia tăng đội quân thất nghiệp, tình trạng chảy máu chất
xám (từ Việt nam ra nước ngoài; từ các địa phương về thành phố), cũng
như sự thiếu ổn định về chính trị....
Trong lĩnh vực quản lý giáo dục cần kiên
quyết xóa bỏ cơ chế “xin – cho“ thực hiện quyền tự chủ - trách nhiệm xã
hội thực sự của các cơ sở giáo dục đại học trên cơ sở thiết lập cơ chế „
hội đồng trường đích thực“. Cần có chính sách lôi cuốn các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp tham gia giám sát các cơ sở giáo dục đại học trong
việc thực hiện các chuẩn mực ( trong đó có các chuẩn mực chất lượng )
được Nhà nước quy định. Các chế tài từ phía Nhà nước đối với các cơ sở
giáo dục đại học, để bảo đảm tính khách quan, chỉ được đưa ra trên cơ sở
các kết quả kiểm định và kiểm toán của các tổ chức này.
Thực hiện triệt để chủ trương xã hội
hóa giáo dục của Đảng. Đối với lĩnh vực giáo dục đại học, Nhà nước cần
sớm làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất vì lợi nhuận và không vì
lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở GDĐH, cơ chế chính sách phù hợp...
như đã nêu tại Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ. Đồng thời Nhà
nước cần có chủ trương thực sự khuyến khích các cơ sở GDĐH không vì lợi
nhuận, ban hành quy chế trường đại học tư không vì lợi nhuận và các chế
độ chính sách ưu đãi cụ thể cho các cơ sở GDĐH loại này.
Tất cả những ý tưởng nêu trên đã được đề
cập đến trong quan điểm chỉ đạo của ngành nhiều năm trước đây, từ Hội
nghị đại học hè 1993, nhưng những năm tiếp sau dường như đã bị quên lãng
đi. Cho đến nay, Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
tiếp tục khẳng định mục tiêu đến năm 2020 phải đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thiết nghĩ những ý tưởng
đó rất đáng được lưu tâm trở lại.
Theo: giaoduc.net.vn