Đưa ngoại ngữ thành môn tự chọn là phù hợp
Điểm thay đổi đầu tiên phải kể đến là giảm số môn thi. Thay vì 6 môn
thi như hiện nay (trong đó có 3 môn bắt buộc và 3 môn được công bố vào
cuối tháng 3 hằng năm), Bộ dự kiến sẽ chỉ còn 4 môn.
Trong đó, 2 môn bắt buộc là Toán và Ngữ văn; 2 môn còn lại do thí
sinh tự chọn trong số các môn: Vật lý, Hóa học, Sinh học, Địa lý và Lịch
sử.
Điều đáng chú ý là môn Ngoại ngữ không nằm trong số môn bắt buộc cũng
như tự chọn. Tuy nhiên, học sinh có thể đăng ký thi môn Ngoại ngữ để
được cộng điểm khuyến khích vào điểm xét tốt nghiệp (tùy theo xếp loại
của bài thi sẽ được cộng số điểm tương ứng).
Về điểm mới này, là cán bộ quản lý, thầy giáo dạy nhiều năm ở bậc
THPT, tôi hoàn toàn nhất trí. Vì nó sẽ giảm được áp lực, căng thẳng cho
học sinh, đỡ một phần tốn kém cho xã hội trong thi tốt nghiệp THPT.
Về môn Ngoại ngữ, do hiệu quả, chất lượng dạy - học ở các vùng miền,
địa phương chưa đồng đều; hơn nữa, cách thi lâu nay đã trở nên lạc hậu,
chỉ kiểm tra, đánh giá được một phần kỹ năng viết và ngữ pháp nên chuyển
môn Ngoại ngữ để cộng điểm khuyến khích, nếu có đăng ký thi là hoàn
toàn phù hợp với tình hình thực tế dạy - học môn Ngoại ngữ hiện nay.
Có người quan ngại, nếu không bắt buộc thi môn Ngoại ngữ thì chất
lượng dạy - học sẽ giảm sút, đi xuống, vì đây là môn học công cụ cơ bản,
rất cần thiết trong bối cảnh hội nhập.
Chúng tôi thiết nghĩ, việc môn học này có thi hay không thi, không
quan trọng. Cái cốt lõi, cái chính là ở chỗ nhận thức, thái độ, cách
quản lý, đánh giá, kiểm tra của nhà trường, thầy cô giáo và học sinh,
phụ huynh.
Cứ làm cho đúng, đánh giá cho chính xác theo quy định, chuẩn của Bộ
đã ban hành thì liệu có học sinh nào dám chểnh mảng, lơ là việc học tập
môn Ngoại ngữ nói riêng, các môn không thi tốt nghiệp nói chung không?
Nhiều cơ sở giáo dục lâu nay làm không tới nơi, tới chốn, sính thành
tích hay có những biểu hiện tiêu cực khác… nên thường đổ lỗi cho hiện
thực khách quan: Không có thi nên học sinh không học, chất lượng đi
xuống. Lỗi tại người lớn cả!
Mặt khác, việc để cho học sinh được toàn quyền lựa chọn 2 môn thi
(trong các môn tự chọn) cũng là điều đáng mừng. Để học sinh được chọn
lựa thi những môn mà các em học tốt, có thế mạnh, chứ không áp đặt, ấn
định như trước đây vào cuối tháng Ba, làm tăng tính linh hoạt trong giáo
dục, tính tự chủ trong từng học sinh, các em có điều kiện thể hiện khả
năng của mình tốt hơn và kết quả sẽ cao hơn, hạn chế được tình trạng
quay cóp, xem tài liệu trong phòng thi.
Làm đúng thì không lo tiêu cực
Một thay đổi nữa trong kỳ thi tốt nghiệp THPT là ngoài diện học sinh
được miễn thi theo quy chế thi hiện hành, Bộ còn dự kiến miễn thi tốt
nghiệp cho các học sinh có kết quả học tập, rèn luyện tốt.
Theo kế hoạch, năm 2014, tỷ lệ miễn thi chung tối đa là 20%; trong
các năm sau, có thể xem xét điều chỉnh tỷ lệ này. Cách đưa ra tỉ lệ như
thế này cũng rất có cơ sở thực tế. Không giống như những năm trước đây,
chỉ đưa ra một chuẩn duy nhất, dễ nảy sinh tiêu cực.
Xác định được 20% học sinh xuất sắc nhất là trách nhiệm thuộc về nhà
trường, thầy cô giáo và cả học sinh. Muốn hạn chế được tiêu cực, có độ
tin cậy, tính chính xác, đồng bộ trong đánh giá, phân loại diện học
sinh được miễn thi tốt nghiệp, phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm, vào
năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của các Sở GD&ĐT, đặc biệt là
các cơ sở giáo dục.
Dân chủ trong trường học cần phát huy hơn nữa, để thầy, cô giáo, học
sinh, phụ huynh mạnh dạn, kịp thời phát hiện, tố giác những trường hợp
có “vấn đề” tiêu cực.
Theo chúng tôi, để điểm mới này có tính khả thi hơn, Bộ cần xác định
sẽ phải đưa ra những tiêu chí cơ bản nhất để xác định học sinh được miễn
thi, làm cơ sở cho các Sở GD&ĐT xây dựng tiêu chí miễn thi cho các
trường THPT.
Tôi đề xuất, nên lấy kết quả học tập và hạnh kiểm cả 3 năm THPT, hạnh
kiểm đạt loại tốt, học lực đạt loại khá trở lên, có điểm ưu tiên diện
con em chính sách, những em tham gia công tác xã hội, hoạt động Đoàn,
phong trào tập thể… nếu đồng kết quả thì tham chiếu thêm vào điểm trung
bình học tập cả 3 năm.
Nếu từng nhà trường, địa phương làm tốt điểm mới này thì vừa giảm
được số lượng học sinh tham gia thi tốt nghiệp vừa là nguồn động viên,
khích lệ tinh thần, ý chí, phấn đấu học tập, rèn luyện của các em học
sinh rất lớn.
Phương án 1: Thi 4 môn
2 môn bắt buộc: Toán và Ngữ
văn. 2 môn còn lại: Thí sinh tự chọn trong số 5 môn Vật lý, Hóa học,
Sinh học, Địa lý, Lịch sử. Thí sinh có thể chọn môn Ngoại ngữ để được
cộng điểm khuyến khích.
|
Phương án 2: Thi 5 môn
3 môn bắt buộc: Toán, Ngữ
văn, Ngoại ngữ. 2 môn khác: Thí sinh tự chọn trong số các môn Vật lí,
Hóa học, Sinh học, Địa lí và Lịch sử.
|