Đầu tháng 10.2008, tại hội
nghị thông báo kết quả khảo cổ học năm 2007, phát biểu của Viện trưởng Viện
Khảo cổ học Tống Trung Tín đã như một “trái bom” khiến những “tay mơ” mới tập
tọe vào thú chơi cổ vật “mất ăn mất ngủ”. Ông Tín cho biết theo kết quả khảo
sát của cơ quan này, đã phát hiện một số trung tâm làm giả cổ vật ở Hoa Lư
(Ninh Bình), quận Hai Bà Trưng và huyện Mê Linh (Hà Nội). Đồ giả cổ được làm
tinh vi, khéo léo, đạt trình độ cao đến mức một số nhà khảo cổ nếu không có
nhiều kinh nghiệm, không chuyên sâu thì cũng có thể bị “qua mặt”.
Âm thầm hám lợi, âm thầm ăn “quả đắng”
“Chơi đồ cổ thì trước tiên phải có tiền. Nhưng quan trọng hơn là phải có kinh nghiệm,
trình độ. Nếu chỉ tung tiền ra mua đồ cổ, chơi đồ cổ bằng mắt, bằng tai thì dễ
bị lừa lắm”, ông Đào Phan Long, Chủ tịch Hội cổ vật Thăng Long, người có hơn 20
năm đeo đuổi thú vui cổ ngoạn cho biết. Ông Long thú thật: “Trong bộ sưu tầm đồ
gốm, đồ đồng của tôi có khi lọt vào những đồ giả cổ tinh vi. Sau này, nhờ trao
đổi với bạn bè, những người am hiểu người ta chỉ cho biết thì mình mới ngã ngửa
ra là bị lừa. Người sưu tầm cổ vật chân chính thường tập hợp với nhau thành hội
để trao đổi, học hỏi lẫn nhau là vì thế. Chứ cứ âm thầm chơi một mình thì nhiều
khi mắc lỡm mà không biết”.
V., một
con buôn cổ vật ở Hà Nội cho biết có bốn nguồn chính cung cấp hàng cho thị
trường buôn bán cổ vật. Nguồn thứ nhất là những cổ vật được giữ lại trong các
gia đình theo kiểu “báu vật gia truyền”, loại này rất ít khi được bán ra thị
trường, “thường thì gia đình nào gặp lúc quá túng bấn mới bán những đồ thừa tự
như vậy” như lời V. nói. Nguồn thứ hai phổ biến hơn là những cổ vật do người
dân vô tình phát hiện ra trong lúc đào móng nhà, phá đá làm đường, rà phế liệu
kim loại... Nguồn thứ ba là cổ vật do những tay chuyên đào bới mộ cổ, nền móng
của các phế tích hoặc trục vớt lén lút từ những tàu cổ chìm đắm. Nguồn cung thứ
tư, số lượng ít hơn và chủ yếu được bán sang nước ngoài là cổ vật đánh cắp từ
các bộ sưu tập cá nhân hoặc các bảo tàng.
Theo V., những năm gần đây không chỉ các bảo tàng, các nhà sưu tầm cổ vật lâu
năm mà cả những người mới giàu lên đều có nhu cầu săn lùng, chuốc cổ vật về bày
để “làm sang”. “Cổ vật thì đương nhiên không thể “sản xuất” ra được, nhu cầu
sưu tầm cổ vật lại đang tăng lên từng ngày, vì vậy đương nhiên người ta phải
nghĩ đến chuyện chế... đồ cổ”, V nói.
Nhập nhèm thật giả
V cho biết trên thị trường buôn bán có hai loại là “hàng xịn” và “hàng mông”,
khách “gà” thường mua phải loại hàng mông (hàng giả cổ) với giá cao ngất
ngưởng. “Có những thứ đồ được bán với giá cao gấp đến 20 lần khi mua”, V. bật
mí.
Chúng tôi quyết định lấy bản thân mình ra làm “vật thí nghiệm”, và quả thật V.
ngay lập tức có ý định “làm thịt” chúng tôi. Đã biết “giá làng” của một chiếc
trống đồng Minh Khí loại nhỏ giả cổ là từ 150 - 300 ngàn nếu mua ở Thanh Hoá,
thế nhưng khi vờ hỏi mua một chiếc trống loại này ở cửa hàng của V., anh ta hét
giá lên đến 2,5 triệu và cùng vờ “ưu ái” lại: “Đấy là giá cho người quen nên
anh bán lấy vốn, chứ khách lạ thì anh còn bán giá cao hơn nữa”. V. nói thêm:
“Hàng giả cổ mới có giá như vậy, chứ hàng thật thì ít nhất cũng phải 2, 3 ngàn
USD”.
Dọc một số con phố ở Hà Nội như Nghi Tàm, Tô Tịch cũng có những cửa hàng chuyên
bán đồ cổ như cửa hàng của V. Giới chơi đồ cổ cho biết, dân sưu tầm chuyên
nghiệp ít khi lai vãng đến đây vì họ cho rằng phần lớn những đồ bán ở đây là
giả cổ. Những cửa hàng này thường không treo biển, hoặc chỉ treo biển “Đồ thủ
công, mỹ nghệ”, người sưu tầm rỉ tai nhau chỉ giới thiệu thì mới biết. Vào
những cửa hàng nay, cảm giác đầu tiên của khách sẽ là khung cảnh tôi tối, âm u
dễ đánh lừa thị giác; khiến người xem thấy những món đồ treo trên tường, bày la
liệt trên giá, sập, phản cũng tôi tối, cũ cũ trong ánh sáng nhập nhoạng này.
Chỉ vào món đồ nào hỏi cũng được chủ cửa hàng quảng cáo với những mỹ từ “bốc
tận mây xanh” như “Đây là đồ độc, không tìm được cái thứ hai ở Việt Nam”. Một
chiêu khác khi bán hàng ở đây là chủ cửa hàng “nhìn mặt mà bắt hành dong”: thấy
khách bình dân thì giả lả: “Biết em thích nhưng điều kiện mình có hạn nên mua
thứ này vừa đẹp, vừa phù hợp túi tiền”; khách sang hơn thường được rỉ tai dắt
vào buồng, lên gác hoặc đến “cơ sở hai” để xem hàng “xịn”.
Hàng giả cổ có hai loại: giả cổ cấp thấp và giả cổ cao cấp. Đồ giả cổ cấp thấp
có giá khá “mềm” vì không phải kỳ công “chế”, và khó có thể bịp ai. Đồ giả cổ
cao cấp được làm đặc biệt tinh vi nên giá cao thấp tùy vào độ “gà mờ” của người
mua. Các con buôn còn thêu dệt nên những huyền thoại về món đồ, hoặc bắt tay
nhau “nổ” về món đồ khiến người mua rơi vào bẫy đã bị gài. Hiện nay, những
người sưu tầm một câu chuyện “thật như bịa” như sau: gần 10 năm trước, một tay
được đánh giá là “sành chơi” trong làng cổ vật bỏ ra 8 triệu đồng để mua một
chiếc bình bằng đồng thời Đông Sơn. Chiếc bình cổ này được trang trọng bày trên
giá như một bảo vật. Bất ngờ một hôm, có bậc cao thủ đến chơi nhìn thấy chiếc
bình đó đã cười nhạt và lắc đầu. Muốn chứng minh mình không phải là
"gà", chủ nhà nghiến răng cạo lớp đồng rỉ xanh trước mặt khách và té
ngửa khi nhìn thấy lõi của chiếc “bình cổ” là... vỏ lon Coca Cola.
Tinh vi “công nghệ” sản xuất… cổ vật
Theo quy định trong Luật Di sản văn hóa, “Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại,
có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở
lên”. Thế nhưng trên thị trường “ngầm”, nhiều món đồ được quảng cáo là ngàn năm
tuổi, nhưng sự thực thì có khi chúng chỉ chưa đầy ngàn... ngày tuổi. Lý do: đó
là cổ vật “nhái”.
Cách thành phố Thanh Hóa chừng 9km, huyện Đông Sơn nổi tiếng là nơi lưu giữ được
nghề đúc truyền thống. Theo chân M., một dân buôn đồ giả cổ đã “rửa tay gác
kiếm”, chúng tôi đã tìm đến một làng nghề tại huyện này để nghe những thợ đúc
kể về quy trình sản xuất... đồ cổ.
Theo phân loại của người làm nghề, đồ giả cổ được làm giả toàn bộ hoặc giả một
phần (sửa chữa từ đồ vỡ thành đồ lành để bán cho được giá). Ví dụ như trống
đồng giả được “phù phép” thành đồ cổ như sau: Trống đồng được đúc mới rồi dùng
hóa chất (có thể có thành phần là sơn ta) phủ lên bên ngoài. Sau đó dùng đèn
khò khò cho lớp sơn cháy, bong ra và chuyển màu. Trong lòng trống, người ta
dùng muối ăn và axit dạng nhẹ trộn vào đất, đắp vào để tạo thành những vết han,
rỗ.
Trình độ những thợ làm giả cổ vật thực sự điêu luyện với trường hợp làm đồ giả
cổ từ nguyên liệu cũ. Người thợ sẽ lấy vật liệu của đồ đồng Đông Sơn hoặc những
mảnh trống bé, không có hoa văn, không phục hồi được đem trộn với composit, sau
đó ép thành từng tấm, đưa vào khuôn trống, tạo trống mới và trang trí hoa văn.
Những “cổ vật” này do được làm từ vật liệu cũ nên rất khó có thể phát hiện
được.
Đồ cổ thật giả lẫn lộn
Kỳ công hơn, những đồ giả cổ như súng thần công bằng đồng, nếu muốn tăng thêm
phần “cổ kính”, sau khi được xử lý hóa chất sẽ được thả xuống vùng biển gần bờ
để những con hà bám vào. Nhìn vào những “cổ vật” này, người sưu tầm cổ vật “tay
mơ” sẽ hoàn toàn tin tưởng cổ vật có niên đại hàng nghìn năm, vừa mới được một
đám thợ săn đồ trục vớt được.
So với đồ đồng, quy trình giả cổ của đồ đá còn tinh vi hơn nhiều lần. Các nhà
sưu tầm cổ vật kinh nghiệm cho biết, để làm giả tượng đá sa thạch, các “nghệ
nhân” khu vực miền Nam Trung Bộ lấy đá trong mỏ đá địa phương (chính là đá được
dùng làm cổ vật từ hàng nghìn năm trước). Bức tượng sau khi hoàn thành được tẩm
axit để tạo ra các vết mòn. Công đoạn tiếp theo là chôn tượng xuống đất hoặc
ngâm vào bể dung dịch có hoà chính loại đất của di tích. Sau một thời gian được
ngâm trong lớp bùn loãng, nước và đất ngấm vào trong các thớ đá, vết nứt. Lúc
đó khó ai có thể phát hiện ra bức tượng là đồ giả cổ.
Gần đây, để rút ngắn quá trình, một số thợ lấy đá trong chính di tích
(đá kê nền nhà, bệ cột) có niên đại rất cổ để làm tượng. Cách làm tương tự được
phát hiện với tượng đất nung. Khi tượng đất nung có niên đại sớm (thế kỷ I -
thế kỷ III) trở thành thứ cổ vật có giá thì hàng loạt các mộ gạch ở Quảng Ninh,
Hải Phòng, Bắc Ninh bị đào bới. Không tìm thấy cổ vật, bọn đào trộm còn gỡ cả
những viên gạch mang đi để tạc tượng. Tượng đất nung kiểu “tân thời” này là sự
sao chép lại từ các tượng nguyên mẫu với số lượng hạn chế và được hét giá lên
đến hàng trăm triệu đồng.
Trống đồng giả cổ.
Đồ sứ cổ là loại đồ dễ “nhái” nhất. Đầu tiên, những món đồ sứ bình
thường sẽ được ngâm axit để bong bớt lớp vỏ mới ở ngoài. Sau đó, người ta rửa sạch
và bôi thật nhiều nhựa cây đu đủ lên, ngâm dưới ao một thời gian năm để cho ốc
bám vào ăn hết lớp nhựa đu đủ. Khi đó vớt lên, rửa sạch thì nhìn món đồ đã có
rất nhiều lớp thời gian” mà những tay buôn quảng cáo là “đồ cổ vớt dưới biển”.
Một cán bộ của Bảo tàng Quảng Ninh cho biết, do tỉnh có cửa khẩu Móng Cái nên
thường xuyên có những vụ tuồn hàng lậu là cổ vật qua biên giới và những tang
vật này thường được giao lại cho bảo tàng quản lý. “Chúng tôi nhận thấy trong
số này có đến khoảng 60% là cổ vật “rởm”, và loại cổ vật nào cũng có thể bị làm
nhái, từ tượng phật, trống đồng đến đồ trang sức bằng đá bán quý (ngọc lưu ly).
Nhiều hiện vật được làm giả rất tinh vi khiến chuyên gia giám định cho rằng
chúng không phải được làm trong nước mà được “cổ hóa” ở nước ngoài rồi trung
chuyển qua Việt Nam”.
Bó tay với tình trạng cổ vật rởm?
Có cách nào để hạn chế tình trạng làm giả cổ vật tràn lan không? Trả lời câu
hỏi này, tất cả những người sưu tầm đều lắc đầu ngao ngán: “Làm sao cấm họ
được, họ làm như thế không có tội tình gì. Họ nói tôi bán đồ mỹ nghệ, đồ lưu
niệm chứ có làm giả cổ vật đâu. Và thế là “cuộc chiến” giữa người làm cổ vật
rởm, người mua, người trung gian cứ thế dai dẳng. Ai dại thì chịu thiệt”.
Một chuyên gia trong giới sưu tầm đồ cổ cho rằng hiện nay quy định về làm bản
sao đối với cổ vật chưa rõ ràng, dẫn đến tình trạng làm đồ giả cổ tràn lan.
Luật Di sản văn hóa có hiệu lực từ năm 2002 quy định về việc làm bản sao cổ vật
như sau: bản sao phải đảm bảo có mục đích rõ ràng, có bản gốc để đối chiếu, có
dấu hiệu riêng để phân biệt với bản gốc, có sự đồng ý của chủ sở hữu cổ vật và
giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá thông tin. Tuy nhiên,
như trên đã nói, những người chế bản sao vẫn có thể nại ra lý do đó là đồ thủ
công mỹ nghệ để “lách luật”.
Lý giải nguyên nhân khiến tình trạng “lập lờ đánh lận con đen” trong thị trường
cổ vật, một chuyên gia khác nhận định: một phần là do chúng ta chưa có một thị
trường cổ vật minh bạch. Theo chuyên gia này, hiện nay chưa có một công ty đấu
giá cổ vật nào được thành lập, việc định giá cổ vật cũng còn gặp nhiều vướng
mắc. “Trước hết phải có một định nghĩa đầy đủ, chi tiết đâu là “báu vật quốc
gia”, đâu là “cổ vật loại một”, “cổ vật loại hai”... để dễ dàng trong quản lý
và định giá. Thứ hai là phải tổ chức được những phiên đấu giá công khai cổ vật
thì những hiện vật lấy cắp hay cổ vật giả mới không xuất hiện trên thị trường.
Thị trường minh bạch cho các cổ vật vừa giúp Nhà nước thu được thuế, vừa giảm
được tình trạng cổ vật “rởm” như hiện nay”, chuyên gia này nói.
Một
số phương pháp phát hiện đồ giả cổ
Một chuyên
gia trong lĩnh vực sưu tầm đồ cổ cho biết, nếu tinh ý vẫn có thể phát hiện
những đồ giả cổ. Ví dụ với trống đồng, đôi khi thợ làm giả cổ không nắm chắc
quy luật hoa văn trang trí nên hoa văn trên trống rởm không phù hợp với hình
dáng trống “xịn”, kích thước sai so với những tỷ lệ quen thuộc. Ngoài ra, trống
đồng cổ được đúc rất mỏng, tạc khắc tinh vi; đồ giả cổ thường nặng hơn vì kỹ
thuật đúc không được chú ý
Với đồ gốm, gốm cổ không có những sản phẩm cùng loại, cùng một kích
thước. Vì vậy, nếu phát hiện những sản phẩm gốm màu có cùng kích thước, hoa văn
trang trí giống hệt nhau thì chắc chắn, đó là hàng giả. Do bị chôn vùi lâu dưới
lòng đất, tùy nơi ruộng cạn hoặc ruộng nước mà độ kiềm lắng đọng trên bề mặt
cũng khác nhau, có loại, khi khai quật, trên sản phẩm có một lớp kiềm dày màu
vàng hoặc trắng, rất cứng; có loại lại không có ngấn nước nào. Hàng giả cũng có
ngấn nước, nhưng ngấn nước này được làm bằng keo trong, khá mỏng, không có độ
cứng, khi sờ vào có cảm giác dính.
Nguồn: Mua bán