Lễ hội Xuân Phả (Thanh Hóa)
Trò Xuân Phả thường diễn ra vào các ngày
10 đến 12/2 âm lịch hàng năm. Theo PGS.TS Bùi Quang Thắng, lễ hội Xuân
Phả được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm để trở thành một tổ
hợp múa dân gian đặc sắc, độc nhất vô nhị chỉ tồn tại ở làng Xuân Phả
nay thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Xưa kia, lễ hội Xuân Phả huy động sự
tham gia của dân chúng trong 5 thôn, mỗi thôn đảm trách một trò. Dân mỗi
thôn tự chuẩn bị cờ hiệu, cờ lệnh, trống chiêng, kiệu rước, lễ vật...
và tập luyện vũ điệu riêng của mình. Đến ngày tổ chức lễ hội, các thôn
rước lễ vật ra nghè.
Đoàn rước có các vũ công trong trang
phục “ngoại quốc”, cờ, kiệu, người hộ giá, trống chiêng vang động khắp
làng. Vào sân nghè, các đoàn dâng lễ lên bàn thờ thành hoàng và trình
diễn “hầu thánh” vũ điệu của thôn mình. Qua đó tỏ lòng tạ ơn vị thần bảo
mệnh (Đại Hải Long Vương) vì đã có công phù trợ cho dân an, vật thịnh,
mùa màng tươi tốt.
|
Những điệu múa độc đáo trong Lễ hội Xuân Phả - Thanh Hoá. Ảnh: BM. |
Trò Xuân Phả có 5 bộ trò tiêu biểu: trò
Hòa Lan, trò Ai Lao, trò Chiêm Thành, trò Tú Huần và trò Ngô Quốc, mô
phỏng các hoạt động của quốc gia, tộc người láng giềng đến yết kiến,
tiến cống nhà vua nước Việt. Hầu hết đạo cụ diễn trò Xuân Phả đều chế
tạo bằng nguyên liệu sẵn có như tre, trúc, gỗ vông, rễ cây si.
Các loại nhạc cụ gồm trống, nhị, hồ,
thanh la, não bát. Trống có đường kính mặt 60- 65 cm nhưng phải có tiếng
và âm phù hợp với loại hình trò diễn. Mõ có hình dáng cong lưỡi liềm,
dài khoảng 20cm được chế từ gốc tre già, mặt ngoài được làm nhẵn, bên
trong đục rỗng để có độ cộng hưởng âm thanh.
Theo một số tài liệu của địa phương, trò
Xuân Phả ra đời vào thế kỷ XV (thời Hậu Lê). Nhưng có ý kiến cho rằng
trò diễn này ra đời từ thời nhà Đinh.
PGS.TS Bùi Quang Thắng cho rằng, Trò
Xuân Phả mang đậm yếu tố cung đình và dân gian Việt trong từng điệu múa.
Với những điệu múa độc đáo, có sự pha trộn yếu tố cung đình và dân gian
mang đầy tính chất ước lệ nhưng Trò Xuân Phả cũng rất huyền bí, lộng
lẫy, phản ánh quan niệm thẩm mỹ của dân tộc nói chung, của người nông
dân nơi nó được sinh ra nói riêng.
Trò Xuân Phả là di sản văn hóa phi vật
thể đặc sắc nhất còn lưu giữ được tương đối nguyên vẹn ở Thanh Hóa sau
hàng trăm năm qua cho đến ngày nay.
Lễ hội Gióng (Gia Lâm, Hà Nội)
Hội Gióng Phù Đổng diễn ra vào 2 ngày
mùng 7 đến 12/4 âm lịch tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà
Nội. Theo truyền thuyết, đây chính là nơi sinh ra người anh hùng Thánh
Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương.
Khác với hội Gióng xã Phù Linh (huyện
Sóc Sơn, là nơi dừng chân cuối cùng của ông Gióng trước khi về trời), lễ
hội Gióng xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội là nơi tái hiện lại trận
đánh chống giặc Ân xâm lược của Đức Thánh Gióng năm xưa.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Quang Thắng, bên
cạnh nhìn nhận Hội Gióng như một kịch trường dân gian rộng lớn với hàng
trăm vai diễn tiến hành theo một kịch bản đã được chuẩn hóa. Trong đó,
mỗi vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa ma thuật cầu mưa hết sức sâu
sắc như: “ông Hiệu“ là các tướng lĩnh của Thánh Gióng; “Phù Giá” là đội
quân chính quy của Thánh Gióng; các “Cô Tướng“ tượng trưng cho 28 đạo
quân xâm lược của nhà Ân; “Ông Hổ“ là đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ“ là
đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen“ là đội dân binh…
|
Cảnh rước hoành tráng ở Lễ hội Gióng làng Phù Đổng. Ảnh: TL. |
Tất cả thành phần tham gia được chọn lọc
kỹ lưỡng gồm 28 tướng giặc và 28 trinh nữ dưới 15 tuổi. Gia đình nào có
người được chọn, họ coi như một may mắn lớn và tổ chức ăn mừng rất lớn.
Bên cạnh đó, lễ hội còn có các màn rước
như: “Rước khám đường“ là đi trinh sát giặc; “Rước nước“ là để tôi luyện
khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm“ là đàm phán, kêu gọi hòa
bình; “Rước trận Soi Bia“ là mô phỏng cách điệu những trận đánh ác liệt…
Giá trị nổi bật toàn cầu của Hội Gióng
thể hiện ở chỗ nó chính là một hiện tượng văn hóa được bảo tồn, lưu
truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ. Lễ hội còn có vai trò
liên kết cộng đồng và chứa đựng nhiều ý tưởng sáng tạo, thể hiện khát
vọng đất nước được thái bình, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Về
mặt mỹ thuật, Hội Gióng mang nhiều nét đẹp và giá trị của lễ hội như
các đám rước, các hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng, diễn xướng dân gian,
múa hát ải lao, múa hổ...
UNESCO khi công nhận Hội Gióng (đền Phù
Đổng và đền Sóc) là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
vào năm 2010 đã ghi nhận: "Một bảo tàng văn hóa của Việt Nam, lưu giữ
nhiều lớp phù sa văn hóa, tín ngưỡng".
Lễ hội vật Cầu Bùn (Bắc Giang)
Lễ hội vật Cầu Bùn hay còn gọi là Lễ hội
cầu nước làng Vân diễn ra ở làng Vân, xã Vân Hà, Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang. Đây được xem là một trong những lễ hội có từ thế kỷ thứ VI. Lễ
hội là nét đặc trưng của văn hóa lúa nước, thể hiện niềm khao khát của
cư dân nông nghiệp cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Lễ hội thường diễn ra hai năm một lần
vào các ngày 12, 13 và 14/4 âm lịch. Tục truyền rằng, khi xưa có hai anh
em Trương Hống, Trương Hát đi theo Triệu Quang Phục đánh giặc, khi đánh
thắng quân Lương trở về đầm Dạ Trạch thì bị bọn quỷ đen ở đầm quấy phá.
Hai bên xung trận, bọn quỷ ra điều kiện, nếu thắng, chúng phải được
thưởng lớn; còn nếu thua, chúng sẽ quy phục theo hầu nhà thánh.
|
Lễ hội vật Cầu Bùn ở Bắc Giang. Ảnh: TL. |
Cuối cùng bọn quỷ đen thua trận, phải
quy phục đức thánh Tam Giang ở đây. Chính vì vậy, dân làng Vân mở hội
vật cầu (còn gọi là hội Khánh Hạ) vào ngày hóa của đức thánh, là với ý
nghĩa hội mừng chiến thắng.
Theo chuyên gia Bùi Quang Thắng, lễ hội
đánh cầu bùn được nhân dân làng Vân khôi phục lại vào năm 2002 sau nhiều
năm gián đoạn. Quả cầu ở đây tượng trưng cho mặt trời. Nó được mang,
được vác, được tung từ Đông sang Tây theo hướng mặt trời mọc và lặn.
Cướp được cầu cũng có nghĩa là cướp được mặt trời, cướp ánh nắng cho lúa
khoai.
Việc tuyển chọn quân cầu được đặt ra rất
khắt khe. Tổng số quân cầu được chọn là 16 người, đều phải là trai chưa
vợ, khỏe mạnh, không có tang, không có bệnh tật, không mang án… Tất cả
quân cầu đều được huấn luyện 3 buổi chiều trước khi hội mở. Quân cầu cởi
trần đóng khố, ngoài khoác áo dài the xếp thành bốn hàng dọc đứng trước
sân quay mặt vào đền lễ thánh.
Sân đình rộng hơn 200 mét vuông đã được
đổ đầy đất bùn. Bùn ở đây được kiểm tra kỹ càng, nước không được quá
nhiều (sẽ bị ướt), hoặc quá ít (sẽ bị khô). Mà nước ở đây, cũng phải là
nước sông Cầu do từ 4 -6 cô gái mặc đồ truyền thống của làng quê Bắc Bộ
gánh nước từ sông lên bằng quang gánh cổ truyền. Thùng nước không phải
thùng thông thường mà bằng chĩnh gốm Thổ Hà.
Hai đầu sân có hai lỗ sâu gần 1m, rộng
nửa mét, các đấu thủ ôm cầu đẩy xuống hố sẽ được tính là đội chiến
thắng. Quả cầu không phải cầu bình thường, mà là quả cầu nặng khoảng
20kg làm bằng gỗ. Bưng được quả cầu đó và phải bảo vệ, di chuyển, cho
vào lỗ trước sự cản phá “ác liệt” của đối phương và trên bãi bùn trơn
trượt, quả là một thử thách không hề nhỏ.
Kết thúc cuộc chơi, xóm đăng cai rửa
sạch cầu rồi làm lễ tạ thánh. Quân cầu lại xếp thành 4 hàng dọc trước
sân cầu để tạ thánh, rồi tất cả ùa ra sông Cầu tắm rửa, kết thúc một
ngày trong hội vật cầu. Sang ngày thứ 2, thứ 3, công việc vẫn diễn ra
như ngày đầu.
Lễ hội Quang Lang - Bà Chúa Muối (Thái Bình)
Lễ hội Quang Lang - Bà Chúa Muối còn
được gọi là Lễ hội ông Đùng bà Đà diễn ra từ 12 đến 14/4 âm lịch hàng
năm tại Đền thờ Bà chúa Muối thuộc làng Quang Lang, xã Thụy Vân, huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Lễ hội Bà Chúa Muối nhằm tưởng nhớ công
ơn vị Phúc thần của làng Quang Lang là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh - đệ tam
Cung phi của vua Trần Anh Tông. Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa truyền
thống với trò diễn dân gian vô cùng độc đáo - tục rước Đùng.
Hàng năm, trước ngày khai hội dân làng
Quang Lang đã phải chuẩn bị nhiều việc trong đó có tục múa ông Đùng bà
Đà vô cùng công phu. Người ta lấy nia (có đường kính 1m) vẽ mặt ông Đùng
bà Đà, mặt ông Đùng vẽ đỏ, mặt bà Đà vẽ trắng. Trên tai của bà Đùng
được đeo hoa mò màu đỏ.
|
Lễ rước kiệu Bà Chúa Muối và ông Đùng bà Đà ở Thái Bình. Ảnh: TL. |
Hình ông Đùng, bà Đà được đan bằng tre
mỏng, đan theo kiểu mắt cáo. Thân hình cao tới 1,5m - 2m, hình chóp nón,
đường kính phía dưới rộng, đủ cho một người chui lọt vào. Sáng sớm ngày
14/4 âm lịch, các thôn trong làng mang các hình nộm ông Đùng bà Đà vào
Đền thờ Bà chúa Muối để tiến hành các nghi thức tế lễ một cách nghiêm
trang thành kính.
Tục chính của lễ hội là múa Đùng được
diễn ra vào lúc nhập nhoạng tối cùng ngày. Khi múa lúc nghiêng ngả, quay
sang phải, sang trái, cho ông bà có cơ hội "bày tỏ" tình cảm vui mừng
với nhau. Ông Đùng vác gốc dứa, bà Đà cầm mo nang, có lúc giáp mặt, có
lúc ghé tai, có lúc hô: “tinh, tinh, tinh, phập…” thì lấy gốc dứa đâm
vào mo cau...
Chuyên gia Bùi Quang Thắng cũng cho
biết, để lột tả hết giá trị tín ngưỡng của lễ hội, các vai ông Đùng bà
Đà phải phối hợp sao cho những lần giáp mặt, thân chập vào nhau. Sau đó,
đoàn múa ra khỏi Đền và đi quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung
quanh Đùng bố mẹ. Dân làng đi theo nhộn nhịp, vừa đi vừa hát múa.
Lúc đám rước quay về tới Đền thì dân
làng vội vã xô nhau vào để lấy cho được một nan nứa trên hình nộm hai
ông bà về cắm vào ruộng, vào vườn, trên thuyền để lấy may. Trong khi múa
người ta xướng vang những câu tụng ca công đức của bà chúa Muối như:
"Lạy chúa! Muối của chúa năm nay được mùa lắm! Lạy chúa, lạy chúa…".
Theo: laodongthudo.vn