Sử dụng
13.000 thợ và lính, xây trong ba năm, Hiếu Lăng – nơi yên nghỉ của vua Minh
Mạng, vua thứ hai triều Nguyễn, là công trình kiến trúc đặc sắc, chứa đựng giá
trị tư tưởng cao của cố đô Huế.
Lăng Minh Mạng nhìn từ trên cao (Ảnh: Internet)
Tuy xây dựng trong vòng 3 năm, nhưng Hiếu lăng lại có thời
gian chuẩn bị không hề ngắn tí nào: 14 năm.
Nối ngôi vua Gia Long, sau 7 năm ở vị trí đứng đầu đất nước,
Minh Mạng đã cho người đi tìm nơi để xây dựng lăng cho mình.
Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa
phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và
Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nơi này cách cố đô Huế 12 km.
Nhưng phải 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua
mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này Việt Nam .
Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương
Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét,
phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám
thành vệ dâng lên.
Khởi công tháng 4-1980, vua Minh Mạng huy động 3.000 lính và
thợ lên san mặt bằng và xây La Thành chung quanh khu vực kiến trúc. Công trình
đang thi công thì tháng 1-1841 vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời.
Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841)
đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy
gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để
lại.
Ngày 20- 8-1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở
Bửu Thành. Công trình vẫn được tiếp tục tiến hành. Đến đầu năm 1843 thì hoàn
tất.
Ròng rã 3 năm thi công, từ một vùng đồi núi hoang vu, một
khu lăng tẩm uy nghiêm tọa lạc ở núi Cẩm Kê. Khác hẳn với những lăng tẩm khác,
Hiếu Lăng vừa có sự uy nghiêm vừa gần gũi với thiên nhiên; một công trình có
kiến trúc đặc sắc và chứa đựng giá trị tư tưởng.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng
40 công trình lớn nhỏ gồm Cung điện, Lâu đài, Đình tạ... được bố trí cân đối
trên một trục dọc từ Ðại Hồng Môn (ở ngoài cùng) tới chân tường của La Thành
sau mộ vua.
Cùng thăm một số góc kiến trúc của khu lăng mộ Minh Mạng có
phong cảnh hữu tình:
Mở đầu thần đạo là Đại Hồng Môn – cổng chính vào lăng. Cổng
có 3 lối đi với 24 mái, phân tầng cao thấp, trang trí rất đẹp. Đây được coi
là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa
quan tài của vua vào lăng, sau đó đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là
Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Ảnh: X.T
Tả Hồng Môn. Đây cũng là lối đi dành cho du khách vào thăm
quan lăng mộ.
Hàng tượng quan văn võ, ngựa voi ở Bái Đình (nối tiếp sau
Đại Hồng Môn) Bái Đình lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45x45m).
Gạch Bát Tràng được lát sân ở khu vực Bái Đình.
Bi Đình nằm
trên đồi Phụng Thần Sơn.
Trung đạo kiều dẫn đến Minh Lâu.
Hai đầu cầu Thông Minh Chính trực là cổng tam quan được
thiết kế công phu với nhiều nét trạm trổ rồng phượng. Cầu Thông Minh Chính
Trực lát bằng đá thanh dài 49m, rộng 4m, hai bên có lan can thưa thoáng vắt
qua hồ Tân Nguyệt để vào Bửu thành. Lối dẫn lên Bửu Thành. Hai bên có là hình
rồng đặc trưng của thời Nguyễn. Những bậc thềm tam cấp đều có trang trí họa
tiết đầu lân được cách điệu. Lăng Minh Mạng có sự hài hòa với thiên nhiên,
tạo nên sự thư thái với những không gian hồ nước, cây xanh.
Du khách thăm quan và ghi lại hình ảnh một góc khung cảnh
lăng .
Qua mỗi lớp cửa ở lăng Minh Mạng là một lần đến với những
công trình tinh tế về kiễn trúc.
Mai Xuân Tùng