Dân
gian tứ chiếng có câu: Cầu Nam - chùa Bắc
- đình Đoài. Dân gian xứ Đoài lại có câu: Đẹp đình So, to đình Cấn (đẹp đình So, to đình Cấn,
bẩn đình Ngọc Than, tan hoang đình Phú Mỹ, cũ kỹ đình Yên Nội). Như
vậy là vẻ đẹp của đình So đã được dân gian công nhận. Đình So là ngôi đình đẹp
vào hạng nhất trong những đình làng của xứ Đoài.
Đình
So là đình của làng So (tên chữ của làng là Sơn Lộ), trước gọi là trang Sơn Lộ,
nay thuộc xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai. Làng So là nơi dừng chân của vua chúa
khi đi thăm Phủ Quốc năm xưa. Nhà chúa có ngự đề bài thơ Nôm ở chùa Nhạc Lâm
(chùa So), nay vẫn còn treo, như sau:
Mảng vui Thiên Phúc cảnh thiên thành
Ngoạn thưởng âu đây thức tính tình
Thái thản nhân cơ trông vợi vợi
Đùn đùn đạo ngạn bước thênh thênh
Trời xuân vặc vặc hoa kê cửa
Gió thuỵ hiu hiu nguyệt giãi mành
Trong thuở tỉnh phương buồm thuận tới
Tiệc vầy ngâm ngợi khúc long bình.
Vào
làng So, đến đình So mà ngắm nghía thật lâu mới thấy được rằng đình không chỉ
đẹp trong kiến trúc mà đẹp cả trong phong cảnh, phong thuỷ, đáng làm một mẫu
hình tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam . Đình nằm gối lên núi rùa, trước mặt là đê sông
Đáy đã được nắn lại tạo thành một hồ nước hình bán nguyệt như tấm gương khổng
lồ in bóng soi cả ngôi đình đồ sộ. Hai bên đình, phía trái là núi Rồng (còn gọi
là núi Cả), phía bên phải là núi Phượng, tạo cho đình nằm gọn giữa một cỗ ngai
lớn. Hiện chưa biết đình So được khởi dựng từ bao giờ, nhưng theo văn bia Tu
sáng Hoa đình bi ký hiện còn dựng tại đình, được khắc vào năm Dương Đức thứ 3
(1674) thì đình này được tu bổ và tôn tạo vào năm Quý Mão (1663). Văn bia cho biết
ngày khởi công tu tạo là ngày 27 tháng 7 năm Quý Mão, hơn hai tháng sau công
việc hoàn thành. Ngôi đình đã trải qua 4 lần trùng tu nữa vào các năm 1743,
1924, 1928, 1953. Quy mô hiện nay của đình là kiến trúc theo kiểu nội công
ngoại quốc trên diện tích 1.100m2. Tổng cộng tất cả toà ngang dãy dọc của đình
là 55 gian, với 64 cột lớn nhỏ. Riêng nhà Tả văn chỉ dùng để viết văn tế thần.
Hành lang của đình được chia cho 28 giáp trong làng, mỗi giáp một gian để làm
chỗ hội họp riêng và sửa soạn lễ lạt của các giáp khi ra việc làng. Đình So có
một tam quan đẹp, hoành tráng, uy nghi, và có bậc đá 29 cấp dẫn xuống hồ bán
nguyệt. Kiến trúc và điêu khắc của tam quan có thể được xem là một mẫu mực về
sự cân đối, vừa vững chãi vừa bay bổng thanh thoát. Đình thờ Tam vị Nguyên soái
Đại vương, là những vị tướng của Đinh Tiên Hoàng.
Thần tích chép rằng: Vào mùa xuân năm Canh Thìn (930), có ông Cao Hiển và bà Lã
Thị Ả ở hương Vạn Kỳ, huyện Gia Định, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc nhà vốn rất nghèo,
làm nghề đánh cá trên sông. Hai ông bà rất thích làm việc thiện, một việc thiện
dù nhỏ cũng làm. Một hôm hai ông bà chài lưới trên sông Như Nguyệt, kéo được 15
dật vàng. Từ đấy hai ông bà làm ăn cứ khấm khá mãi lên nên cuộc sống rất khá
giả. Hiềm nỗi hai ông bà đã ngoài 50 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Ông vẫn
thường nói: Tiền rừng gạo bể mà không có con thì sống không được vui và bàn với
bà đi tìm nơi cầu tự. Hai ông bà nghe nói ở đền Hữu Linh, trang Sơn Lộ là nơi
linh ứng cầu gì được nấy, bèn cùng nhau sắm sửa lễ vật đến đó cầu tự. Sớm hôm
sau ông bà làm lễ tạ rồi xuống thuyền cùng với hai người vạn chài xuôi dòng
sông Hát. Thuyền đang đi, trời bỗng nhiên tối sầm lại như đêm và một trận gió
lớn ập đến. Lúc này thuyền chở ông bà đến địa phận trang Sơn Lộ, hai người ngẩng
đầu nhìn lên trời thấy có đám mây vàng hướng vào bà mà hạ xuống. Lã thị hoảng
sợ, nằm miên man. Sau đó bà có mang. Tháng 2 năm Quý Tỵ (933), bà sinh được 3
người con trai. Ba đứa trẻ lớn lên thành những chàng trai khoẻ mạnh rồi theo
Đinh Tiên Hoàng đi dẹp loạn. Quân sĩ kéo từ Hoa Lư thắng trận về đến trang Sơn
Lộ thì nghỉ lại và tập hợp trai tráng trong vùng tiếp tục chiến đấu dẹp loạn 12
sứ quân. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi bèn sắc phong 3 ông là Tam vị Thông Hiện
Nguyên soái Đại Vương. Trải qua các triều đại, Tam Thánh đều được sắc phong mỹ
tự và cho trang Sơn Lộ đời đời thờ phụng.
Làng
So có lá cờ thần rộng tới 24 mét vuông, cứ mỗi khi cờ bay trên nền trời xanh in
bóng mặt hồ nước lung linh cùng với tiếng trống sấm vang lên là làng đang có
hội. Lễ hội đình So, làng So được diễn ra vào ngày hai dịp mùa xuân và mùa thu.
Lễ hội mừng ngày Thánh Sinh
Hội
mùa xuân, là lễ hội mừng ngày Thánh sinh nhằm ngày 8 tháng 2. Ngày này dân làng
tổ chức rước bài vị từ Miếu Ông và Miếu Bà, là song thân của các Thánh về đình
để chung hưởng sự thành kính của dân làng. Theo ghi chép trong sách cổ thì hội diễn
ra trong 3 ngày nhưng không khí chuẩn bị cho ngày lễ này thì rộn dịp trước đó
khá lâu.
Trong
lễ hội mừng ngày Thánh sinh thì vui nhất, và hồi hộp nhất vẫn là cuộc thi lợn
anh. Từ trước đó hàng năm mỗi giáp chọn lấy một con lợn đen tuyền, rồi giao cho
một nhà trong giáp nuôi. Nhà ấy cha mẹ song toàn, gái trai đầy đủ, hiếu hạnh.
Sau khi chọn được lợn mới ra đình xin chân nhang về để làm lễ trình ở nhà. Kể
từ đó, con lợn ấy được gọi là lợn anh. Không ai được gọi là con lợn, mà cũng
không ai được đánh mắng nữa. Lợn anh được nuôi dưỡng theo một chế độ đặc biệt, chuồng
trại phải sạch sẽ, thức ăn phải thanh sạch. Khi lợn anh lớn một chút người ta
đem thiến đi.
Vào
ngày mồng 7 tháng 2, lợn anh của 28 giáp trong làng đều được tắm rửa sạch sẽ
bằng nước thơm, ăn bằng thức ăn tinh khiết và được đưa vào cũi để rước ra đình.
28 giáp là 28 cái cũi, trên mỗi cũi đều được cuốn một tràng hoa bưởi, đủng đỉnh
để tiến ra sân đình. Các cũi lợn được xếp thành hai hàng dọc theo sân đình,
trước sự chứng kiến của Thánh và hội đồng lý dịch cùng đông đảo dân làng. Làng
chọn ra những lợn anh to nhất để cân xem anh nào to nhất, nặng nhất để trao
giải thưởng. Lợn anh của giáp nào được giải thì không chỉ người nuôi được vui
mừng và hãnh diện mà cả giáp ấy đều thấy phấn chấn tự hào. Giải thưởng gồm hai
bậc: giải dân và giải giáp. Giải dân do làng thưởng, còn gọi là giải đất, vì người
nuôi sẽ được cấp 3 sào đất ở cánh bãi để canh tác và lấy hoa lợi mà không phải
nộp thuế má gì. Đất ấy người này sẽ được giữ cho đến khi nào có ai đó nuôi được
lợn anh có số cân nặng hơn lợn anh được giải, dù chỉ một vài cân. Giải giáp thì
do giáp thưởng, và khi giáp mổ con lợn ấy thì nhà chủ nuôi sẽ được biếu một cái
tràng hoa (tức là cái khoanh cổ lợn). Các cụ bảo vào một năm, cũng gần đây
thôi, giáp nọ có lợn anh nhỏ hơn giáp kia, đáng ra là không được giải, nhưng
dùng thế lực áp đảo để lấy giải nhất. Khi khiêng lợn về đến nhà thì lợn xổng ra
khỏi cũi rồi lại đi ra đình.
Ngày
này, sau bữa trưa tại các giáp, là đến cuộc hát thờ ở đình. Thường làng đón các
giáo phường ở Phủ Quốc về hát hầu Thánh. Các ả đào đứng trước điện, tay cầm lá
phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, hát Giai, Độc phú… trong
tiếng hoà âm của các nhạc khí. Giáo phường được mời đến hát nhất định sẽ hỏi
cho bằng được tên huý của các Thánh thờ trong đình để khi hát đến những chữ ấy
thì tránh đi. Hát cửa đình So có các chữ không được nói tới là Hiển, Lã, Hiện,
Suý, Lang. Hiển là tên huý của ông cụ thân sinh ra các Thánh; còn Lã là tên họ
của cụ bà Lã thị. Hiện là tên huý của ba anh em nhà Thánh; Suý và Lang là tước
phong của Thánh. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và
tránh đi; ví như chữ Hiển thì đọc là Hởn, chữ Lã thì đọc là Lữ. Nếu cô đầu
không nhớ ra, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào
tang trống và cho ngừng cuộc hát. Bấy giờ người quản ca của giáo phường phải
đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ
chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu, đến trước điện làm lễ
tạ lỗi với Thánh và các quan viên. Cô đầu sẽ hát từ chiều đến tối, có khi đến
tận canh khuya, trước là để hầu thánh, sau là để giúp vui cho quan viên.
Theo
nghi thức về việc mở lễ hội được ghi trong bản thần tích do Đông các Đại học sĩ
Nguyễn Bính soạn, thì hội mở trong 3 ngày mới thôi. Ngoài hát xướng còn có các
trò chơi đánh cờ, đấu vật. Ngày lễ mừng thánh sinh, các cô gái làng đi lấy
chồng xa về làng rất đông vui và đua nhau làm lễ và cung tiến rất nhiều vào
đình.
Lễ mừng thắng trận, khao quân
Về
mùa thu, lễ hội đình So nhằm ngày 10 tháng 7. Đây là lễ hội kỷ niệm Thánh giải
vây, thắng trận, tế cáo thiên địa và khao thưởng quân sĩ. Lễ mừng khao quân là
một lễ vui vẻ trong dân. Ngày này, sẽ dâng tế vật là một con trâu. Làng có 28
giáp, mỗi năm, có một giáp phải lo việc sắm sửa lễ vật. Như vậy, nếu năm nay
giáp này chuẩn bị tế vật thì phải 28 năm sau nữa thì mới lại đến lượt sắm lễ.
Con trâu phải được thui khéo, da vàng xộm, quỳ trên cái giá gỗ, mõm hếch lên,
còn sừng thì lấy giấy đỏ cuốn vào. Nội tạng của con trâu đã được lấy ra, làm sạch,
nên con trâu tế được dân làng gọi là trâu trong. Cảnh tượng hiến tế trâu trong
thật long trọng tôn nghiêm. Sau khi tế xong, đồng dân cùng hưởng lộc, rồi chiều
và tối thì tập trung nghe hát ở đình hoặc các miếu quán trong làng. Đào kép cũng
có khi vừa hát xong ở miếu này lại xách đàn sang miếu khác.
Những
người già trong làng vẫn còn nhớ dịp “đóng đám năm Bảo Đại tam niên”. Ấy là năm
1928. Năm ấy vì đình làng sửa đình nên rước bài vị gửi ở nơi khác, khi công
việc hoàn thành thì làm lễ hoàn cung. Bấy giờ làng có mua đèn lồng về mắc lên
mái đình, đao đình, và trên các con rồng con nghê trên mái đình, để đêm đến
sáng lung linh rất đẹp. Hội làng được tổ chức rất to, phần lễ thì trang nghiêm
hoành tráng, phần hội thì vui vẻ, linh đình. Về trò chơi có trò bắt chạch trong
chum, bắt dê. Làng còn cho mời đội cồng chiêng Mường ở Lương Sơn về để hoà âm
trong lễ tế ở đình.Làng đóng đám 7 ngày 7 đêm, mà đêm nào cũng có hát ả đào,
mới từ ấp Thái Hà ngoài tỉnh về. Hội kéo dài trong 3 ngày.
Lễ chay kỷ niệm ngày Thánh hoá
Ngày
thánh hoá là ngày 10 tháng Chạp. Ngày nay là lễ cúng chay. Công việc chuẩn bị
cho lễ cúng chay được tiến hành từ trước đó cả tháng trời. Những người chuẩn bị
cho lễ chay bao giờ cũng là đám con trai khoảng 18, 19 tuổi. Họ phải tắm rửa
sạch sẽ rồi mới đến tập trung ở nhà ai đó để chọn gạo làm bánh. Gạo được chọn
thật kỹ càng từng hạt, không có hạt gãy, hạt chẩm. Bấy giờ mới đồi xôi, rồi cho
vào cối giã như giã bánh dầy. Nhân của bánh bằng đỗ xanh rang kỹ, nghiền nhỏ, trộn
với nước mật. Hương liệu là thảo quả thơm ngát. Nhân này được bao bọc bằng xôi
giã. Cuối cùng là lấy lá chuối bọc bên ngoài. Lễ vật dâng trong ngày Thánh hoá
bao giờ cũng là lễ chay, được làm từ nguyên liệu thanh khiết và với tấm lòng
thành kính nhất. Được biết bánh cuốn dâng Thánh có thể để được trong thời gian
rất lâu, và người dân làng cho rằng đó chính là thứ lương thực của quân sĩ của
thánh năm xưa.
Vào
ngày này, dân không tổ chức hội mà chỉ có lễ chay. Không có tổ chức rước xách
và các trò chơi dân gian, cũng không có hát thờ. Tất cả các công việc chuẩn bị
cho lễ cúng chay được thực hiện trong niềm thành kính nhất để tưởng niệm đến
công lao và ân đức của Thánh.
Lễ
hội đình So ngày một đơn giản đi so với trước kia. Vẫn có bánh chay dâng Thánh, nhưng
không có trâu trong nữa, và tục nuôi lợn anh thì chỉ còn trong câu chuyện của
những người già. Hát thờ ở cửa đình cũng không còn nữa. Người dân vẫn bày tỏ
lòng thành kính lên Tam vị Nguyên soái Đại vương bằng các nghi thức tế lễ,
nhưng phần vui hội thì gần như vắng bóng.
Và
hằng năm, mỗi khi tiếng trống sấm vang dội và lá cờ đại rộng tới 24 mét vuông
được kéo lên, bay giữa trời và lồng trong bóng nước hồ bán nguyệt, là khi làng
mở hội, thì trong lòng người già làng So, những ký ức xa xăm về hội xưa lại
vọng về, nao nao nhớ đến dịp đóng đám năm 1928, nhớ đến cái ngày làng thi lợn
anh và rước trâu trong ra đình, thật oai hùng và trang trọng.
Nguyễn Xuân Diện