Tương truyền, các quan viên, chức sắc thôn trưởng cùng già
trẻ lớn bé ở thôn Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo
Kinh Bắc, nước Đại Việt thời bấy giờ đồng lòng trùng tu chùa Phúc Nương là
nơi danh lam thắng cảnh. Đây là chùa lớn và có từ sớm, in đậm nhiều dấu tích
của lịch sử đời Lê Sơ Việt Nam . Bia "Trùng tu Phúc Nương tự bi" do Nguyễn
Chuyết Phu - Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu đời Vua Mạc Mậu Hợp (1589), làm quan đến
chức Hình khoa Cấp sự trung soạn năm Hoằng Định thứ bảy (1606) cho biết, chùa
Phúc Nương là danh lam của đất Đông Ngàn, từng được nhiều người có thần thế góp
sức sửa sang như Tán trị Khai quốc công thần Thái sư Lương Quốc công, Trung
Nam vương Lê Thạch, Tán trị Khai quốc công thần Thái uý Tán Quốc công, Mục
Chiêu Trưng Vương Lê Khôi, Thiếu bảo Lê Quốc Trinh... Nay các vị chức sắc và
mọi người thôn Yên Thị tuân lệnh Thái uý Ngạn Quốc công Trịnh Đỗ tra rõ được
số ruộng chùa mà ngài Thái thường tự Khanh, Văn Thụy tử Đàm Đình Tuyên đã
biên chép đầy đủ, bèn khắc vào bia để lưu truyền lâu dài. Mặt sau khắc tên
các vị: Lê Khôi, Đàm Đình Tuyên, Trịnh Đỗ và 140 quan viên hương trưởng cúng
số ruộng đất để phụng thờ Tam Bảo. Công đức ấy thật là to lớn như núi cao,
sáng mãi như mặt trời, mặt trăng. Dân làng thấy vậy nên quyết định ghi lại sự
tích trùng tu nhà chùa vào đá truyền lại đời sau. Sau năm 1945, ngôi chùa
được trùng tu lại và giữ nguyên cho tới tận bây giờ. Chùa vẫn giữ được nét
đơn sơ, cổ kính, thanh tịnh và tôn nghiêm khác hẳn những ngôi chùa mới phục
dựng.
Cụm di tích đền, chùa Yên Thường, huyện Gia
Lâm, TP Hà Nội
Sát
cạnh chùa là đền, còn có tên gọi Từ Vũ Yên Thường, thờ Quận công Nguyễn Đình
Huấn, một quan võ trông nom việc trị an ở Kinh thành Thăng Long, sau được
phong tước Quận công. Khi làm quan, ông để tâm giúp đỡ quê hương nên tám
thôn, xã trong vùng thờ ông làm Thành hoàng hoặc Phúc thần. Đền Yên Thường
được xây dựng khoảng cuối thế kỉ XVIII (thời Lê), mang nhiều giá trị lịch sử
và nghệ thuật. Về nghệ thuật, ngôi đền đạt giá trị cao mà các di tích cùng
loại của đương thời không sánh kịp. Về kết cấu, đền có vùng ngoài rộng phong
quang. Tiếp đến là Tam quan ba gian, sân có tượng chầu đến ngôi đền thờ theo
lối bổ dọc ba gian và một chái ở phía trước, còn giữ được nét khởi dựng tương
tự chùa Tây Phương, Quốc Oai, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Có thể nói, hình
thức thờ này ít thấy ở miền Bắc và có ảnh hưởng của Đông Nam Á. Nét nổi trội của
đền là các đồ thờ bằng đá. Mở đầu là đôi chó đá khá lớn, trông đơn giản nhưng
đầy tính dân gian; trong Tam quan là bộ hộ sĩ đá, hai tượng võ cầm chùy, đầu
đội mũ bì biện vành kim khôi cánh hoa cúc, áo mặc hai lớp, ở vai ngực có các
mặt hổ phù chạm nổi. Qua Tam quan đến sân có bốn tượng võ vẻ mặt dữ tợn hoặc
hiền từ cầm kiếm đứng chầu, có vị râu loe hình quạt, vị râu nhọn… Trong đền
thờ ở gian ngoài có năm nhang án. Riêng nhang án đặt chính giữa, ở hai góc
ngoài là đôi sư tử, phía trong là hai lọ hoa, giữa là bát hương. Tất cả tạo
thành một khối đá với bốn mặt khắc chữ Hán niên đại Cảnh Hưng. Hai nhang án
bên nhỏ hơn bày theo chiều dọc. Gian hậu cung có một khán đá và hai bài vị ở
hai bên đặt trên một phiến đá lớn hình chữ nhật, chạm khắc theo hình kiểu long
đỉnh, bốn góc mái khum có chỏm. Đền còn lưu giữ quyển Tộc phả Nguyễn Đình ghi
từ đời Quận công Nguyễn Đình Huấn, do cử nhân Ngô Đông sao chép năm 1940...
Trải
qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, hiện nay cụm di tích này vẫn giữ
nguyên trạng của công trình kiến trúc nghệ thuật cổ với nhiều hiện vật có giá
trị như ngai, các đồ thờ tế bằng đá có giá trị... Sư trụ trì Thích Đàm Lương
cho biết, đang có kế hoạch trùng tu, tôn tạo đền, chùa Yên Thường thêm đẹp đẽ
phong quang nhưng vẫn giữ nguyên những nét kiến trúc cũ. Đồng thời, kêu gọi những
tấm lòng hảo tâm, công đức của các phật tử gần xa cùng chung tay góp sức để
cụm di tích thêm khang trang bề thế.
Theo Người cao tuổi