Nói đến văn hóa của các dân tộc trên vùng cao nguyên đá,
trước hết phải nói đến văn hóa người Mông. Nói đến văn hóa người Mông là
nói đến kiến trúc ngôi nhà truyền thống Việt Nam , bởi đây là thước đo không chỉ đánh
giá sự giàu có, mà còn là căn cứ để xác định đâu là người Mông cư trú lâu
nhất vùng.
Khuôn viên một ngôi nhà trình tường. (Nguồn:
dulichhagiang.vn)
Hà Giang - mảnh đất biên giới cực Bắc của Tổ quốc là nơi có Cột cờ
Lũng Cú hiên ngang và Cao nguyên đá Đồng Văn với những dãy núi đá tai mèo trập
trùng.
Nơi đây còn lưu giữ văn hóa truyền thống phong phú, đậm đà bản sắc
dân tộc của đồng bào 22 dân tộc.
Người Mông chiếm phần đông nhất trong số các dân tộc làm ăn sinh
sống từ bao đời nay trên vùng cao nguyên cực Bắc. Nói đến văn hóa của các dân
tộc trên vùng cao nguyên đá, trước hết phải nói đến văn hóa người Mông. Nói
đến văn hóa người Mông là nói đến kiến trúc ngôi nhà truyền thống, bởi đây
là thước đo không chỉ đánh giá sự giàu có, mà còn là căn cứ để xác định đâu
là người Mông cư trú lâu nhất vùng.
Theo ông Hùng Đình Quý (nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Hà Giang) - người gắn bó suốt đời với các hoạt động nghiên cứu về dân tộc
Mông, dân tộc Mông ở Hà Giang có gần 200.000 người với hai nhóm chính là
Mông trắng và Mông hoa, chiếm 31,5% dân số toàn tỉnh; sinh sống đông nhất ở
3 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc và Quản Bạ.
Với môi trường sống ở trên các sườn núi cao, khí hậu lạnh khắc nghiệt,
đã ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc nhà ở của dân tộc này. Từ quan niệm
sống, môi trường đã hình thành nên nét độc đáo trong văn hóa kiến trúc của
ngôi nhà trình tường bằng đất, lợp ngói hay tranh là phù hợp nhất, với ưu
điểm vừa giữ ấm về mùa đông, mát mẻ trong mùa hè và lại có thể chống được
kẻ gian, thú dữ.
Nét độc đáo trong kiến trúc ngôi nhà của người Mông tương đối thống nhất
theo một khuôn mẫu, dù to hay nhỏ đều phải có ba gian hai cửa (gồm một cửa
chính, một cửa phụ và tối thiểu là hai cửa sổ). Ngôi nhà có thể có một hoặc
hai chái nhà, nhưng đều không liên quan trực tiếp đến ba gian nhà chính. Ba
gian nhà chính của người Mông được sắp xếp như sau: Gian bên trái dùng để
đặt bếp nấu nướng và buồng ngủ của vợ chồng gia chủ; gian bên phải dùng để
đặt bếp sưởi và giường khách; gian giữa thường rộng hơn hai gian bên và là
gian để bàn thờ tổ tiên, đồng thời cũng là nơi tiếp khách, ăn uống của gia
đình.
Trong gia đình người Mông, phòng ngủ của vợ chồng, con cái được bố trí
riêng. Người Mông thường ngủ bằng phản gỗ hoặc giát bằng tre mai đập giập.
Tập tục của người Mông rất khắt khe, nơi ngủ của con, em dâu thì bố, anh
chồng không được vào và ngược lại con, em dâu không được phép vào nơi ngủ
của bố chồng, anh chồng. Nhà của người Mông bao giờ cũng có sàn gác để cất
giữ đồ đạc, lương thực, thực phẩm; ngô, lúa, đậu tương khi thu hoạch về
được cất lên gác, khói bếp sẽ hạn chế được sâu mọt, ẩm mốc.
Ngoài ra, sàn gác còn có thể làm nơi ngủ mỗi khi nhà đông khách.
Điều đặc biệt là đàn bà, con gái không được phép ngủ trên gác. Bởi thế kể
cả khi cha mẹ chồng, con trai trong nhà đi vắng thì con dâu cũng không được
lên gác; nếu muốn lấy vật gì trên gác cũng không được trèo thẳng lên mà chỉ
được phép dứng ở bậc thang rồi lấy que khều.
Trong văn hóa truyền thống của dân tộc Mông, các ngôi nhà không được
dính sát vào nhau, kể cả anh em ruột thịt. Người Mông quan niệm khi làm ma
tươi cho người chết, người ta có tục lệ thổi khèn, kèn, tù và, vác nỏ đi
vòng quanh nhà ba lần đi, năm lượt về (đối với nam giới), năm lượt đi và
bảy lượt về (đối với nữ giới) để xua đuổi các loại ma đói, ma yểu khỏi về
quấy rầy người chết. Chính vì vậy, người Mông cho rằng nếu làm nhà dính vào
nhau, khi nhà có tang ma sẽ không tiến hành được nghi lễ trên thì coi như
đám ma ấy không làm đúng luật lệ tổ tiên đã quy định, không đảm bảo cho
người chết được yên ổn trong cõi vĩnh hằng.
Đồng bào dân tộc Mông rất chú trọng việc chọn đất làm nhà. Sau khi chọn
được đất tốt, đất lành, người ta tiến hành san nền, kê móng, trình tường
nhà. Công việc trình tường nhà được bà con dân tộc Mông tiến hành khá công
phu với một số quy định như người lạ không được vào khu vực nhà đang trình
tường, nhất là phụ nữ.
Để trình tường nhà, bà con phải làm những chiếc khuôn gỗ có chiều
dài 1,5m, rộng 0,45-0,5m. Khi trình tường, người ta đổ đất đầy khuôn gỗ, dùng
những chiếc vồ nền chặt đất. Đất dùng để trình tường phải được loại bỏ sạch
rễ cây, đá to, cỏ rác. Khi tiến hành trình tường, người ta huy động vài
chục thanh niên trai tráng trong làng đến giúp; cứ như vậy khuôn nọ nối
tiếp khuôn kia cho đến khi hoàn thành. Sau khi trình tường xong, gia chủ sẽ
tiến hành chọn ngày tốt, hợp với tuổi chủ nhà mới được vào rừng chặt hạ cây
cột cái, cây đòn nóc.
Trước khi chặt cây phải thắp ba nén hương; tiếp đó, cắm ba tờ giấy bản
vào gốc cây khấn thần rừng, thần cây cho xin cây gỗ về làm nhà. Họ quan
niệm rằng làm như thế thần cây, thần rừng không quở mắng và nhà cửa mới yên
vui, mọi người khỏe mạnh, ăn nên làm ra, gia đình hạnh phúc. Chọn được ngày
chặt cây, cây cột cái được gia chủ chặt xong đem thẳng từ rừng về, không
được đặt xuống đất mà phải đưa lên nóc ngay.
Đối với hai cây cột cái ở gian giữa và cây cái nóc (hay còn gọi là đòn
nóc), người Mông coi hai cây cột cái là cột chủ đạo trong nhà thể hiện sự
ngay thẳng, cứng cáp, vững vàng của chủ nhà, nên cây cột phải là một cây
rừng không bị sâu, thối, cụt ngọn. Hai cây cột này còn có một vị trí rất
quan trọng trong đời sống tâm linh của người Mông.
Cửa chính ra vào nhà của người Mông cũng phải chọn gỗ tốt để làm.
Cửa bao giờ cũng được mở vào phía trong. Cửa không cài bằng then sắt mà phải
cài bằng then gỗ. Người Mông quan niệm không sử dụng bản lề, then cửa bằng
sắt là vì cửa mở ra đóng vào được xem là lòng bụng con người, nếu dùng các
vật dụng bằng sắt thì sẽ lạnh, nên tất cả các ngôi nhà của người Mông luôn
sử dụng sự mềm mại của cây rừng.
Một nét độc đáo nữa trong cấu trúc nhà truyền thống của người Mông
là tất cả các ngôi nhà thường được xếp đá xung quanh vô cùng chắc chắn. Để có
được hàng rào đá hoàn chỉnh bao quanh ngôi nhà và mảnh đất rộng chừng
200-300m2, gia chủ cùng với người thân phải mất hàng tháng trời nhặt những
mảnh đá vỡ quanh nhà về xếp thành hàng rào đá.
Những viên đá có kích cỡ khác nhau với nhiều góc cạnh được xếp lèn vào
nhau, tạo nên bức tường bao kiên cố, phẳng mà không cần sử dụng chất kết
dính nào. Chiếc cổng gỗ có mái và dán giấy đỏ xen giữa bờ rào đá trước nhà,
được người Mông trang điểm tạo nên vẻ ấm cúng giữa cái lạnh mùa đông ở Cao
nguyên đá.
Người Mông làm nhà dựa lưng vào núi; mỗi bản thường có từ vài ba nóc
nhà trở lên, có bản chỉ có một dòng họ hoặc nhiều dòng họ chung sống quây
quần bên nhau trên một sườn núi. Đặc biệt, đối với người Mông, hầu như nhà
nào cũng trồng một vài cây đào, cây mận, cây lê. Hình ảnh mùa xuân với hoa
đào nở đỏ, hoa lê trắng bên những bức rào đá tựa như một bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ. Bên trong hàng rào đá là một đời sống sinh hoạt hết sức ấm
cúng của các gia đình người Mông.
Trải qua hàng thế kỷ, người Mông trên Cao nguyên đá Đồng Văn ở Hà Giang
ngày nay vẫn không ngừng sáng tạo để cải tiến ngôi nhà truyền thống của
mình cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, cũng như trong sinh hoạt, lao động
sản xuất mà vẫn không quên gìn giữ những nét đặc trưng truyền thống của dân
tộc./.
Minh Tâm (TTXVN)
|