Chùa
Mía (tên chữ: Sùng Nghiêm tự) là một ngôi chùa thuộc Phật giáo Bắc
truyền (1), nằm ở thôn Đông Sàng, xã Đường Lâm, Sơn Tây, thành phố Hà
Nội. Có tên gọi như vậy bởi địa bàn mà ngôi cổ tự tọa lạc trước đây tên
là Cam Giá, tên nôm là Mía. Chùa Mía nằm trên đỉnh quả đồi đá ong nhỏ,
bằng phẳng (rộng chừng 1ha, hướng nam), nằm ngay đầu làng cổ Đường Lâm.
Phía trước chùa là chợ Mía (còn gọi là chợ Chùa hay chợ Tam Bảo) và đền
thờ vọng Bố Cái đại vương.
Về
tới chợ Tam Bảo, trong không gian đậm nét của làng quê Việt, bất cứ du
khách hay phật tử nào cũng có cảm giác hoài cổ khi ngước mắt lên ngắm
nhìn ngôi cổ tự. Chiêm ngưỡng vẻ cổ kính, thâm nghiêm của tam quan chùa
Mía dưới tán cây đa cổ thụ 400 tuổi, có lẽ bất cứ ai cũng có cảm giác
bình yên đến lạ lùng. Trong khung cảnh làng quê êm đềm, chùa Mía ấn
tượng mà giản dị ngay từ cái nhìn đầu tiên của du khách.
Chùa
Mía được người dân trong ngoài vùng biết đến bởi sự tôn nghiêm, cổ
kính. Đến nay, người Đường Lâm vẫn truyền tai nhau những câu chuyện đậm
nét huyền bí về ngôi cổ tự này. Họ tin rằng, mọi lời cầu nguyện tại đây
đều được linh ứng. Theo các bậc cao niên ở đây, năm 1945, khi đê sông
Hồng bị vỡ khiến cả vùng Sơn Tây ngập trong biển nước nhưng thật kỳ lạ,
nước lũ đã không thể xâm phạm đến khu vực chùa Mía và cuộc sống của dân
làng cũng không bị xáo trộn. Người xứ Đoài cho rằng, thần linh chùa Mía
đã che chở cho họ thoát khỏi sự tàn phá của thủy thần.
Đã
tồn tại những quan điểm trái chiều về lịch sử hình thành của Sùng
Nghiêm tự. Theo một số nhà nghiên cứu, chùa được khánh thành đầu TK
XVII, vào năm Đức Long thứ tư (Nhâm Thân, 1632). Tuy nhiên, căn cứ vào
các dấu tích trong chùa, đa phần các học giả cho rằng, dấu tích xưa của
chùa là một ngôi miếu nhỏ được xây dựng vào thời Trần. Nội dung văn bia
cổ còn lưu giữ tại chùa cho biết, tam bảo trước chùa được dựng năm 1621
(2). Sau, ngôi miếu cổ được bà Nguyễn Thị Ngọc Rệu (3) huy động dân làng
cùng nhau tôn tạo lại vào năm 1632, miếu được xây lại thành chùa lớn
như hiện nay.
Theo
thời gian, chùa Mía đã được tu bổ nhiều lần. Năm 1750, tòa tiền đường
mới (7 gian 2 đốc) được dựng thêm. Công trình này nằm ở phía trước tiền
đường cũ. Năm 1843, dân làng bổ sung thêm gác chuông, đồng thời chuyển
nhà thờ tổ (từ phía sau) ra bên phải chùa như hiện nay. Các năm 1853,
1916, 1928, 1963, ngôi cổ tự được sửa chữa và làm thêm thượng điện, tả -
hữu hành lang và một số kiến trúc khác. Đến năm 1993, nhà thượng điện
được tu bổ, tôn tạo hoàn toàn và xây thêm bảo tháp cửu phẩm liên hoa.
Mặc dù tu bổ nhiều lần, song đến nay, quy mô tôn tạo ngôi chùa từ TK
XVII dường như vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Trên
mặt bằng tổng thể kiến trúc chùa Mía, những công trình chính được bố
cục theo kiểu nội công ngoại quốc (4). Trong kiến trúc ngôi chùa Việt,
tam quan là cổng chính vào chùa với ba lối đi, cửa giữa lớn hơn hai cửa
bên. Vách cổng được xây dựng bằng các vật liệu khác nhau, như gỗ, gạch
hoặc đá; hai bên cổng có khắc câu đối, phía trên cổng lợp mái và nơi
trán cửa có ghi tên của công trình kiến trúc. Tam quan chùa Mía cũng
không ngoại lệ. Phần kiến trúc này có sự kết hợp gác chuông nên được
thiết kế hai tầng, tạo thành hình chữ nhị. Mỗi tầng gồm ba gian với
chiều dài ngang nhau. Tầng một gồm bốn hàng cột và có hai mái với hai
đầu hồi bít đốc, được mở trực kiến vào chính điện. Tầng này bao gồm cửa
đi (cửa ra vào, có cánh, kiểu thượng song hạ bản) và cửa sổ. Tầng hai là
gác chuông, được kiến trúc với bốn hàng cột và có bốn mái, bốn đao. Mặc
dù tầng hai được bao kín cả bốn phía nhưng không gian kiến trúc vẫn
thông thoáng bởi các bậc thợ lành nghề xưa đã sử dụng các song tiện gỗ
làm vách bao che. Bốn góc đao dựng ở mái tam quan đã tạo cảm giác mái
nhẹ và bay.
Bước
qua tam quan, du khách bước dọc theo lối vào chùa sẽ đến cổng trong.
Phần kiến trúc này được xây theo kiểu tường hoa chắn mái. Phần nối giữa
hai trụ cột có trang trí cuốn thư, ở giữa có đắp nổi ba chữ 崇嚴寺(Sùng
Nghiêm tự). Cánh cổng thấp nên nhiều du khách đến viếng chùa, không để ý
dễ bị va đầu. Các bậc tiền nhân xưa ở Cam Giá thiết kế như vậy với dụng
ý để khách bước vào chùa sẽ phải cúi đầu kính cẩn, bắt đầu hành trình
tự soi rọi lấy phật tâm của chính mình.
Rảo
bước tiếp dưới những tán cây xanh, du khách sẽ được đặt chân lên khoảng
sân rộng. Nổi bật giữa sân là hòn non bộ được xây trên nền cao bảy bậc
và án ngữ phía trước tiền đường. Cây cảnh và hòn non bộ ở sân trong đã
tạo nên không gian trầm mặc và thanh tịnh cho ngôi cổ tự. Sát đó là cây
đa đã 400 năm tuổi. Đứng bên cạnh kiến trúc tôn giáo, cây đa xanh tốt
dường như tôn vinh ngôi cổ tự. Những tán lá xum xuê của nó vươn dài ra
khiến các phật tử hành hương về đây cảm nhận họ đang được đức Phật bao
bọc, chở che. Từ xa nhìn lại, bóng dáng sừng sững của cây đa sân chùa
như một biểu tượng đánh dấu miền đất Phật mà chúng sinh đang hướng tâm
về. Trong không gian mát mẻ, thoáng đãng, chùa Mía thêm trầm mặc, cổ
kính và linh thiêng.
Bảo
tháp cửu phẩm liên hoa là một ấn tượng lưu dấu đối với mỗi du khách khi
về thăm chùa Mía. Công trình này đối đỉnh với cây đa cổ thụ và gần gác
chuông. Từ xa, du khách đã có thể thấy thấp thoáng bóng tòa tháp lẩn
khuất lẫn trong những tán cây. Với mong muốn được gìn giữ, phát triển
nét văn hóa của làng quê, người dân địa phương đã quyết định xây dựng
thêm công trình này vào cuối những năm 90 TK XX.
Bảo
tháp cao 13m, thờ vọng xá lợi đức Phật (5). Đây là ngọn tháp bút trấn
giữ cho mạch âm của làng quê được an lành. Bảo tháp được thiết kế hình
bát giác, phía trong có cầu thang xoáy dùng để đi lên đỉnh tháp. Ở mỗi
góc của hình bát giác là phần chân trụ của công trình được bố trí mái
đao cong theo lối kiến trúc cổ. Mỗi góc hình bát giác ở 9 tầng tháp phía
trên đều được các nghệ nhân chạm trổ hình các con rồng uốn lượn rất
tinh xảo.
Trong
mỗi ô cửa ở 9 tầng phía trên của bảo tháp này đều hiển thị bông hoa
sen. Từ bao đời, trong tâm thức của cư dân nông nghiệp châu Á, hoa sen
tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiến, thần bí và tư tưởng sâu kín. Hình
tượng hoa sen ở bảo tháp chùa Mía hướng du khách thăm chùa liên tưởng
đến nội dung diệu pháp của đạo Phật. Trong các tác phẩm tạo hình Phật
giáo và cả những người được Phật độ về cõi Tây phương cực lạc đều được
hiển thị ngồi trên tòa sen (6).
Bước
chân vào chùa Mía, trước khi vào chính điện, khách hành hương dừng lại ở
tiền đường. Tại đây, họ chỉnh đốn y phục và soạn lễ. Nhà tiền đường có
bố cục mở, thông với bái đường. Với 32 cột (kiến trúc kiểu 4 hàng cột),
mặt bằng của tiền đường rất thoáng đãng với 7 gian, 2 chái. 7 gian có
chiều ngang khác nhau, gian giữa rộng nhất, 3,4m. Kẻ ngồi, bẩy hiên (7)
của chùa được chạm khắc hình hoa lá đơn giản. Khoảng không gian được mở
rộng từ tòa tiền đường trở vào với bình diện kiểu nội công - ngoại quốc.
Nơi đây được xếp đặt một số lượng tượng phật lớn.
Tòa
bái đường được xây song song với tiền đường theo hình chữ nhị. Giữa hai
dãy nhà này có một khoảng trống để ánh sáng tự nhiên lọt xuống và phản
chiếu sang các bức tượng ở hai bên và trên phật điện. Những tia sángtừ khoảng giếng trời này
làm bừng lên sức sống cho ngôi cổ tự nhưng không hề làm mất đi vẻ tôn
kính của nó. Đồng thời, khoảng trống này đã vô tình tạo nên sự tách biệt
giữa khu vực dành cho người ngồi làm lễ và khu vực gian thờ. Ánh nắng
mặt trời phản chiếu qua đường diềm mái ngói ở hai bên xuống nền gạch,
tạo nên một khung cảnh tuyệt vời cho những người mang tâm hồn nghệ sĩ
thỏa sức với những sáng tạo mới của mình. Tòa bái đường chùa Mía dài
7,3m. Hệ thống 32 cột và được kết cấu thành 4 hàng đã ngăn công trình
này thành bảy gian và hai đốc. Bái đường nối với nhà thiêu hương và hậu
cung giật cấp, tạo chiều cao và chiều sâu thâm nghiêm.
Nhà
thiêu hương (còn gọi là ống muống) chùa Mía được chia thành ba gian với
kiến trúc bốn hàng cột. Phần kiến trúc này được thiết kế là cầu nối
giữa bái đường với thượng điện. Thượng điện (hay hậu điện) được cấu trúc
thành ba gian với đầu hồi bít đốc. Gian giữa của thượng điện nối liền
với nhà thiêu hương, hai gian đầu hồi tạo ra tả - hữu hậu cung. Đi từ
nhà thiêu hương lên thượng điện phải bước qua 5 bậc và cao hơn 1m.
Tòa
hậu đường có chiều dài tương đương với tiền đường và bái đường, được
chia thành 5 gian và 2 chái. Kết cấu vì kèo ở hậu đường mang phong cách
kiến trúc TK XVI. Tại phần kiến trúc này có những chiếc cột gỗ mít to,
có cột đường kính tới 0,76m. Tuy không hài hòa với các thành phần kiến
trúc liên quan, nhưng điều này càng khẳng định sự cổ kính của công
trình.
Tả
- hữu hành lang gồm 7 gian được thiết kế theo dạng nhà cầu, đầu hồi bít
đốc. Theo một số nhà nghiên cứu, các chùa cổ thời nhà Lê về trước
thường được xây dựng theo kiểu kiến trúc này. Khoảng giữa bái đường và
hậu đường được nối bởi hành lang ngoài. Nơi đây dùng để đặt tượng 18 vị
la hán (gọi là thập bát hán) và ban thờ đức chúa ông, đức thánh hiền tại
gian cuối của mỗi hành lang. Do được sắp xếp theo hình chữ mục, nên các ban thờ được nối tiếp nhau và những người đi lễ sẽ không quay lưng vào bất cứ ban thờ nào.
Đáng
chú ý con số 7 trong kiến trúc chùa Mía: mặt bằng ở tòa tiền đường, bái
đường và tả - hữu hành lang đều là 7 gian. Số gian của bái đường tùy
thuộc vào quy mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.
Vậy kiến trúc 7 gian là sự ngẫu nhiên của tiền nhân hay một dụng ý nào
đó? Đến nay, qua khảo cứu các tài liệu về chùa Mía, chúng tôi vẫn chưa
thấy có văn bản nào đề cập đến chủ đề này. Tuy nhiên, con số 7 được nhắc đến trong kinh Phật Thuyết đại bát nê hoàn như
sau: “Lúc mới ra đời, đức Phật đã đi 7 bước trên 7 đóa sen vàng. Ý
nghĩa số 7 trong Phật giáo: 7 bước về phía đông biểu thị bậc đứng đầu
dẫn đạo chúng sinh; 7 bước về phía nam là thị hiện vì chúng sanh làm
phước điền vô thượng; 7 bước về phía tây là biểu thị hiện thân sau cùng
vĩnh viễn đoạn tận cái khổ sinh lão bệnh tử; 7 bước về phía bắc là thị
hiện đã hóa độ các loài hữu tình sinh tử…” (8). Đó là truyền thuyết Phật
giáo và điều này có ảnh hưởng đến thiết kế 7 gian của kiến trúc chùa
Mía hay không, đây có lẽ sẽ vẫn còn là câu hỏi cho các nhà nghiên cứu
văn hóa.
Nổi
tiếng là nơi thâm nghiêm và thanh tịnh, Sùng Nghiêm tự còn chứa đựng
nhiều giá trị văn hóa kiến trúc của ngôi chùa Việt. Nét đẹp của ngôi cổ
tự làng Đường Lâm đã thu hút nhiều nghệ sĩ đến đây để sáng tạo nên những
tác phẩm nghệ thuật của mình. Từ năm 1993, chùa Mía đã được Bộ VHTT,
nay là Bộ VHTTDL, xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.
_______________
1.
Phật giáo Bắc truyền (Bắc tông) hay còn gọi là phái Đại thừa
(sa.mahāyāna), xuất hiện trong TK I trước CN. Với mục đích giác ngộ cho
đông đảo quần chúng lao động nên giáo pháp của Đại thừa rất đa dạng. Bồ
Tát (sa.bodhisattva) là hình tượng tiêu biểu của phái Đại thừa và kinh
văn Đại thừa đầu tiên là Bát nhã bát thiên tụng. Nguồn: Damien Keown, A Dictionary of Buddhism (Từ điển Phật giáo), Oxford University Press, England, 2003, p.38.
2. Đặng Bằng, Lê Liêm, Di sản văn hóa Đường Lâm, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009, tr.29.
3.
Nguyễn Thị Ngọc Rệu (còn có tên khác là Ngọc Dao, Ngọc Dong hay Liệu,
Giao, Leo, Reo... ), người làng Nam Nguyễn (Nam An), nay thuộc thôn Đông
Sàng, Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Bà được dân làng gọi là bà
chúa Mía. Bà Ngọc Rệu là người tài sắc vẹn toàn, có tài văn thơ và là
cung phi được chúa Trịnh Tráng sủng ái nhất. Theo Đặng Bằng, Lê Liêm,
sđd và Lạc Việt, Chùa Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2009, tr.139.
4. Kiến trúc chùa kiểu nội công ngoại quốc bao
gồm có nhà tiền đường (ở phía trước) được nối liền với nhà hậu đường
(có thể là nhà tổ, nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa và đã viên
tịch, hay nhà tăng, nơi ở của các nhà sư, ở phía sau) bởi hai hành lang
dài. Nhà thiêu hương, thượng điện và các công trình kiến trúc khác được
bao quanh bởi một khung hình chữ nhật. Các công trình kiến trúc chính đã
định dạng bố cục của chùa: phía ngoài chùa có khung bao quanh như chữ
khẩu (口) hay chữ quốc (國), còn phía trong chùa có kết cấu hình chữ công (工).
Bên cạnh đó, chùa còn có các kiến trúc khác, như bảo tháp, tam quan,
gác chuông; ở nhiều ngôi chùa, tam quan được thiết kế gồm tầng và tầng
hai là gác chuông. Nguồn: Lạc Việt, sđd.
5. Lạc Việt, sđd, tr.140.
6. Shakti M. Gupta, Plant Myths and Traditions in India (Huyền thoại và truyền thuyết về cây trồng ở Ấn Độ), Brill Publishers, Leiden, Netherlands, 1971, p.65-67.
7. Kẻ ngồi là các dầm đơn, gác từ cột cái sang cột quân. Bẩy
hiên (còn gọi là bẩy hay bẩy hậu), là dầm nằm trong khung liên kết vào
cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Thông thường trong kiến
trúc đình, chùa, bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng, không có cột
hiên, nên thường dùng bẩy hiên. Nguồn: Nguyễn Bá Lăng, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, tập 1, Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.102 - 105.
8. Thiên Hương, Ý nghĩa số 7 trong Phật giáo và số 7 kỳ diệu, diendan.lyso.vn.
Theo: vanhien.vn
Xem thêm: Cần ra tay gìn giữ để biến những di sản như Chùa Mía- Đường Lâm thành những tài sản có giá trị cho Hà Nôi và du lịch.