Lặn lội tầm nghệ nhân dựng nhà
Thuở
xưa, ở xứ Long Hựu (làng Long Hựu, tổng Lộc Thành Hạ, tỉnh Chợ Lớn, xã
Long Hựu Đông, huện Cần Đước, Long An) có gia đình ông Hương sư, trưởng
gia tên là Trần Văn Hoa (1879 - 1952) giàu nức tiếng Việt Nam . Tuy là địa chủ
nhưng ông đức trọng, tài cao, ăn ở có trước có sau nên được dân chúng
trong vùng mến mộ, kính nể.
Thân
sinh ông Hương sư là cụ Trần Văn Nhơn, một người cần cù, siêng năng,
chịu khó. Thuở trước xứ Long Hựu hoang vu, chưa người khai phá, chỉ có
cây ngập nước, kênh rạch. Một mình cụ Nhơn cất công đến phát cây, đào
đất đắp ụ dựng nhà. Nhờ biết cách trồng lúa, năng chăn nuôi, chẳng mấy
chốc, gia đình cụ Nhơn vươn lên thành nhà có của ăn của để. Nghe tiếng,
người dân tìm đến nhờ cụ bày cách làm ăn, dần dà nhà cửa được dựng
lên...
Đồ nội thất trong ngôi nhà vô giá
Rồi
cụ Nhơn lập ấp, dựng làng, xứ Long Hựu hình thành từ đó. Không ngừng
khai hoang, mua thêm đất, gia đình cụ Nhơn trở thành người có đất đai
rộng thẳng cách cò bay, trâu, bò thả đầy đồng. Có vị thế, lại giỏi, nên
cụ được các quan Pháp trọng dụng, tiến cử cụ làm chức Hương quan trong
vùng (tương đương quan cấp huyện ngày nay), cụ tham gia Hội đồng quản
hạt nở Nam Kỳ lục tỉnh. Dù giàu có, địa vị quan lang, thế nhưng cụ Nhơn
là một địa chủ có tinh thần dân tộc, thương người, sống để đức cho con
cháu. Cụ là người uyên thâm Đông - Tây học, nghiên cứu sâu những tư
tưởng nho học vào cuộc sống thường ngày, để tạo dựng khuôn phép gia
đình, rèn dũa con cháu giữ gìn nề thói gia phong, nên không những dân
chúng kính trọng cụ, mà quan Tây cũng nể phục.
Thế
hệ con cháu của cụ kể lại rằng, cụ Trần Văn Nhơn là người rất mẫu mực,
đặc biệt chú trọng rèn dũa con cháu theo khuôn phép Nho giáo. Cụ am hiểu
nhiều lĩnh vực, trong đó đặc biệt thích nghệ thuật kiến trúc và có ý
định xây dựng một ngôi nhà theo đúng cốt cách gia đình phong kiến truyền
thống xưa.
Trong
mấy người con mà cụ Nhơn sinh ra có Trần Văn Hoa, có nhiều tư chất
giống ba nhất. Thông minh, khiêm tốn, cần cù, từ nhỏ đã biết thương
người, Hoa được cha đặt nhiều kỳ vọng và dạy dỗ rất nghiêm ngặt. Nhà
giàu có, Hoa còn được đi học trường Tây, về nhà lại được cha truyền thừa
tư tưởng nho giáo, nên sớm lĩnh hội được những tư tưởng tiến bộ, thức
thời. Năm 1901, Trần Văn Hoa tròn 22 tuổi. Một ngày, cụ Nhơn gọi Hoa lại
và bảo: "Này con trai, từ lâu ta rất muốn xây dựng một ngôi nhà theo
lối cha ông xưa. Một đời lao lực làm ăn, giờ ta đã già không còn sức,
tất cả ta chỉ trông chờ vào con. Ta biết Huế là xứ của kiến trúc nhà
truyền thống rường cột, không chỉ đẹp mà chắc chắn, chỉ làm một lần đời
sau con cháu cứ thế nối tiếp mà ở. Con hãy làm một ngôi nhà như thế".
Hiểu
ý cha, chàng thanh niên Trần Văn Hoa thu xếp việc nhà, cất công ra tận
Huế thăm thú các công trình cung đình của các vua chúa xưa. Ông nhận
thấy rằng, vùng đất này có lối dựng nhà không chê vào đâu được. Nhất là
những ngôi nhà rường cách đây hàng trăm năm vẫn không hư.
Những
ngôi nhà rường ở Huế bây giờ không đơn thuần là nhà ở nữa, mà là tác
phẩm đạt đến độ nghệ thuật, người dựng nhà cũng là nghệ nhân. Họ nắm giữ
bí quyết dựng nhà đạt được hai yêu cầu, một mặt yên tâm sinh sống ngay
trên miền quanh năm gió bão và mặt khác đạt độ thẩm mỹ cao. Chàng trai
22 tuổi nhận ra rằng, ngoài gỗ tốt ra, điều cốt yếu là do người dựng.
Và ở xứ Trung Kỳ này chỉ có một ngôi làng mộc, sản sinh những con người
khéo tay về điêu khắc gỗ, dựng nhà, đó chính là làng Mỹ Xuyên, cách
trung tâm Kinh đô Huế thời đó khoảng 40 km về phía Bắc (hiện nay làng
nghề này vẫn còn- PV). Những nghệ nhân xuất thân từ làng này nhiều đời
được triệu vào cung để thiết kế, sáng tạo các tác phẩm điêu khắc cho
kinh thành và nhà cửa cho các vị quan tướng trong triều. Ông Hoa đã tìm
gặp những người này và sau nhiều ngày tuyển chọn, ông quyết định chọn 15
thợ bậc thầy về điêu khắc gỗ có tiếng trong làng, chuẩn bị ngày đưa vào
Nam dựng nhà.
Mặt tiền của nhà Trăm Cột
Gian nan ngày dựng nhà
Tuy
phải nhờ đến nghệ nhân, nhưng việc thiết kế mẫu nhà lại là do chàng
trai Trần Văn Hoa quyết định. Bởi, ai cũng biết, tuy mới 22 tuổi đời
nhưng Hoa rất giỏi về kiến trúc, đó là điều hiếm thấy ở chốn miệt sông
nước, nơi xưa nay chỉ có cách dựng nhà bằng cây chàm, lợp lá dừa tạm bợ.
Anh
Trần Văn Ngộ (chắt của cụ Hoa) kể với tôi rằng, tất cả công đoạn xây
nhà được ông nội kể lại là rất kỳ công, mất rất nhiều công sức, thời
gian, còn chi phí thì không thể nào tính nổi. Tất cả vật liệu nhà như
gỗ, gạch nền, đá trụ, ngói lợp hoàn toàn lấy từ nơi khác chứ không phải ở
quê nhà như người ta lầm tưởng. Vì xứ Long Hựu hồi đó nhiều rừng, nhưng
chủ yếu cây thân xốp, không có loài gỗ tốt theo yêu cầu của nhà rường.
Gỗ tốt chỉ có ở vùng Tân Uyên - Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay), còn
phần dự tính dùng đá xanh, gạch lục giác. Đá xanh thì chỉ có một số
ngọn núi ở vùng Biên Hòa, còn gạch ở các lò ở Biên Hòa nổi tiếng bền
đẹp, không chê vào đầu được.
Về
quê, ông Hoa cho người lên vùng rừng Tân Uyên - Bến Cát, chọn những
loài cây thân gỗ như: Gõ đỏ, mun, thao lao, cẩm bông, trắc, giá tỵ. Đặc
biệt gỗ giá tỵ, được mệnh danh là "vua gỗ" - chỉ dùng làm báng súng -
được ông ưu tiên tìm với số lượng nhiều nhất. Đích thân ông Hoa chọn
những thân cây lớn nhất, dài nhất đẵn nguyên cây, lọc phần vỏ và phần có
thể mục bên ngoài, chỉ còn lõi rồi phơi khô. Tuy nhiên, phần vận chuyển
mới thực khó khăn. Bởi, tính khoảng cách đường chim bay thì từ Bến Cát -
Tân Uyên về đến Long An không quá trăm km. Thế nhưng, hồi đó không hề
có đường lớn, chỉ có những con lộ nhỏ, nhưng không có phương tiện để vận
chuyển hàng trăm thớt gỗ khổng lồ, nặng hàng tấn. Chàng thanh niên Trần
Văn Hoa đã chọn đường sông để đưa gỗ về. Hệ thống sông Sài Gòn chảy từ
hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh ngày nay) nối Thủ Dầu Một cắt qua tỉnh Chợ Lớn
(ngày nay là ranh giới địa phận Long An và Sài Gòn), xuôi về hạ nguồn,
đổ ra cửa biển. Xứ Long Hựu nhà ông chính là điểm mút của hạ nguồn sông,
từ cửa biển có con rạch dẫn vào tận nhà. Vì thế, chỉ cần đưa gỗ lên bè,
từ Thủ Dầu Một cho chảy xuôi là về đến nhà ông.
Ngày
vận chuyển gỗ, chứng kiến sự kiện ông Hương sư xây nhà mà ngỡ như xây
một kinh thành bằng gỗ. Những thân cây khổng lồ ngày nối ngày được vận
chuyển bằng bè về, xếp ngổn ngang trên mảnh đất nhà ông. Song song với
đó là một đội đào đất cơi nền. Xong xuôi, ông lại cho người ngược Biên
Hòa chọn những thớt đá xanh đục đá, đích thân ông tìm đến lò gạch uy tín
nhất ở Biên Hòa đặt nung gạch lục giác và ngói liệt (loại ngói dành
riêng lợp nhà rường) vận chuyển về. Sau khi vật liệu xong xuôi, 15 nghệ
nhân điêu khắc, kiêm dựng nhà làng Mỹ Xuyên, được ông Hoa chính thức mời
vào ăn ở ngay trong nhà, cùng ông thiết kế.
Bà
Trần Thị Ngõ (SN 1947, là cháu dâu, người gọi ông Hoa bằng cố) cho
biết, bà là hậu thế, không chứng kiến cảnh xây nhà, thế nhưng bà nghe
cha chồng kể lại rằng: "Ngôi nhà xây mất năm năm mới xong, trong đó hai
năm xây dựng, ba năm chạm khắc". 15 nghệ nhân Huế được ông Hoa nuôi ăn ở
ngay trong nhà suốt năm năm trời. Nhà ông Hoa giàu, công bộc sòng
phẳng, nên những nghệ nhân không nề hà, cống hiến hết mình. Tổng giá trị
ngôi nhà khoảng 15 nghìn đồng (thời tiền tính bằng xu, cắc). Ngày khánh
thành nhà, một lễ tân gia trước nay chưa từng có, những quan chức Nam
Kỳ lục tỉnh, quan Tây nườm nượp đến chúc mừng, dân chúng kéo đến xem như
nêm, ăn uống linh đình nhiều ngày trời. Người ta tò mò đến xem một công
trình nghệ thuật mà xưa nay vùng sông nước không ai có.
Kỳ Anh