Chùa Một Cột nằm trên phần đất thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành cũ. Đến giữa
thế kỷ XIX thôn này đã hợp nhất với thôn Thanh Ninh và mang tên mới là Thanh
Bảo. Đây là một ngôi chùa có kiến trúc hết sức độc đáo ở nước ta.
|
Chùa Một Cột ngày nay.
|
Chùa
hình vuông, mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ có đường kính
1,2m, cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất) gồm 2 trụ đá chồng lên nhau, gắn rất
khéo, thoạt nhìn cứ tưởng là một khối đá liền Việt Nam . Tầng trên đỡ một hệ thống những
thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, nhìn
chẳng khác nào một đoá hoa sen vươn thẳng lên từ một hồ nhỏ hình vuông có xây
lan can bằng gạch chung quanh. Một cầu thang xây xinh xắn dẫn lên chùa. Trên
cửa chùa có tấm biển đề "Liên hoa đài" (đài hoa sen) gợi nhớ đến sự
tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây dựng chùa.
Sử cũ chép rằng: "Vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm dắt vua lên
toà sen. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy hỏi các quan. Có người cho là điềm không
lành. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm toà sen
bên trên giống như đã thấy trong mộng. Rồi cho các sư chạy đàn tụng kinh. Vì
vậy gọi là chùa Diên Hựu".
Sử còn cho biết cụ thể là chùa này xây vào khoảng tháng 10 năm Kỷ Sửu, tức vào
tháng 9 năm 1049. Và văn bia tháp Diên Linh ở chùa Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) soạn năm
Tân Sửu (1121) tức là 72 năm sau khi xây xong chùa Một Cột có tả chùa này như
sau: "... Giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đoá hoa sen nghìn cánh,
trên sen dựng toà điện màu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng tài năng nhân
đức (tức tượng Quan Âm). Vòng quanh hồ là dãy hành lang: lại đào ao Bích Trì
mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả, hữu
xây tháp lưu ly...".
Như vậy, chùa Một Cột thời Lý lớn hơn ngày nay nhiều và cả kiểu dáng, những bộ
phận hợp thành cũng phong phú hơn nhiều. Sang thời Trần, trong bốn câu đầu của
bài thơ "Đề Diên Hựu tự" (đề chùa Một Cột) nhà sư Huyền Quang mô tả:
"Thượng phương thu dạ nhất chung lan
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
Xi vẫn đảo miên phương kinh lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn".
Nghĩa là:
Đêm thu trên gác chùa một tiếng chuông tan
Màu trăng như sóng gợn, cây bàng như son đỏ
Tượng những con xi vẫn (tức là những tượng chim, thú...) đắp trên mái chùa in
xuống ao vuông lạnh như mặt gương, khác nào nằm ngược mà ngủ say.
Trước chùa hai toà tháp bóng láng như đôi tay ngọc lạnh ngắt.
Những tháp ấy nay không còn, cả những mái chùa có đắp hình các con thú "xi
vẫn" cũng không còn. Vì chùa đã nhiều lần sửa chữa qua bao biến cố thăng
trầm của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Không phải nói tới xa xưa, mà mới gần
đây, ngày 11/9/1954, trước khi rút lui, thực dân Pháp đã cho nổ mìn phá hủy
ngôi chùa Một Cột, chỉ còn lại cái cột đá và mấy chiếc xà gồ. Sau khi tiếp quản
Thủ đô, Chính phủ đã cho làm lại nguyên dạng như trước và đến tháng 4/1955 thì
hoàn thành.
Cạnh
chùa Một Cột có một cây bồ đề lịch sử. Nguyên là năm 1958 Hồ Chủ tịch sang thăm
Ấn Độ, Tổng thống Ấn Độ có tặng Bác một cây bồ đề. Về nước Bác đã cho trồng tại
khu chùa Một Cột.
Theo kiến thức