Từ
trên bờ đê xa xa, du khách đã có thể thấy thấp thoáng ngôi chùa Keo cổ
kính dưới chân đê nằm ở thôn Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình. Càng lại gần lại càng bị mê hoặc bởi phong cảnh hữu tình nơi
đây. Cây cối và hồ nước như tôn thêm cho ngôi chùa sự thanh tịnh hàng
trăm năm vốn có.
Chùa Keo đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt bởi lối kiến trúc
độc đáo, hiếm có và điều vô giá là ngôi chùa vẫn giữ được sự cổ kính
nguyên sơ trong gần 400 năm nay. Vào năm Tân Sửu 1061, thiền sư Không
Lộ, một người tu hành uyên bác đã từng tu luyện tại Tây Trúc năm 1060 và
chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông khỏi bệnh hóa hổ, được vua phong làm
Quốc sư, đã cho xây dựng ngôi chùa có tên Nghiêm Quang tự ở làng Keo.
Đến đời vua Lý Anh Tông, năm 1167, chùa được đổi tên thành Thần Quang
tự. Năm 1611, chùa Thần Quang bị lũ lụt tàn phá, sông Hồng cũng bị sạt
lở khiến dân làng phải di dời chỗ ở và dựng lại chùa Thần Quang - chính
là chùa Keo ngày nay. Người dựng lại chùa Keo là quận công Tuấn Thọ hầu
Hoàng Nhân Dũng ở làng Tứ Quán, phủ Hải Thanh và vợ ông là Lại Thị Ngọc
Lễ. Chúa Trịnh chỉ cấp 100 cây gỗ lim, còn lại tất cả nguyên vật liệu
khác và công sức xây dựng đều do nhân dân và vợ chồng quận công đóng
góp; do ảnh hưởng của cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn nên công cuộc vận
động dựng lại chùa Keo kéo dài 19 năm mới đủ nguyên vật liệu. Tháng 7
năm 1630, quan Tuấn Thọ hầu đã mời được 42 hiệp thợ giỏi để thi công xây
dựng chùa trong 28 tháng. Chùa Keo được khánh thành vào tháng 11 năm
Nhâm Thân 1632 trên diện tích đất rộng 58.000m2 gồm 21 công trình với
157 gian. Hiện nay, chùa Keo còn 17 công trình với 128 gian trên diện
tích 2.022m2.
|
Trải qua gần 400 năm tồn tại, chùa Keo vẫn còn giữ gần như nguyên vẹn
các giá trị kiến trúc cổ, gỗ lim, mái ngói rêu phong và không có bê tông
cốt thép. Kiến trúc tổng thể chùa Keo hài hòa và cân đối không chỉ giữa
các công trình mà còn hài hòa cả với thiên nhiên. Chùa kiến trúc theo
kiểu: “Nội nhị công, ngoại nhất quốc”. Từ trên đê bước xuống bậc tam
cấp, qua khu sân rộng có nhiều cây lớn tỏa bóng, chúng ta bắt gặp Tam
quan của chùa được xây 3 gian, 4 mái đặt trên 3 hàng chân cột, còn 2
cổng phụ hai bên được xây bằng gạch theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái.
Qua Tam quan, du khách bắt gặp hồ nước phẳng lặng, hai bên tả - hữu có
con đường lát gạch dẫn vào chính chùa: “Tiền Phật - hậu Thần”. Tiền
đường gồm 5 gian có đặt tượng: Hộ pháp, Khuyến thiện, Trừ ác, Đức ông,
Thập điện diêm vương. Thượng điện thờ Quán âm thế chi thiên nhãn, quán
âm Nam Hải, Phật bộ di đà tam môn, Hoa nghiêm tam thánh, Quán âm tọa
sơn. Trong tòa Tam bảo có những bức tượng hết sức quý giá như tượng Quân
âm Bồ tát, Quan âm tọa sơn, Thập bát La hán, tượng A di đà có niên đại
từ thế kỷ 17, 18. Đặc biệt, pho tượng vô giá làm bằng gỗ trầm hương tạc
Thiền sư Không Lộ đã gần 1.000 năm được đặt trong cung cấm, du khách chỉ
có thể đứng ở bên ngoài cửa để chiêm bái và vái vọng Ngài. Không chỉ có
những bức tượng vô giá mà trong tòa Tam bảo còn có những bức đại tự chữ
vàng, câu đối khảm trai được chạm khắc tinh xảo. Nhiều cổ vật quý hiếm
cũng được lưu giữ trong chùa Keo cho đến ngày nay như: Bộ thuyền rồng,
Bộ hạc khí, chuông đồng, đôi chân đèn đời Mạc. Tượng Phật, tượng Thánh
với những nét chạm khắc tinh xảo, tất cả như chìm trong ánh nến lung
linh, trong làn khói hương thơm ngát, khiến du khách như lạc vào cõi
Phật linh thiêng, huyền ảo.
Hai bên chùa chính là hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 33 gian được kiến
tạo theo lối kiến trúc Cột – Kèo - Mái để du khách sắp lễ và nghỉ ngơi;
xa xa là hai hồ nước bao quanh, trên bờ có bóng cây tỏa mát, có ghế đá
cho du khách ngồi nghỉ, hưởng làn gió mát từ mặt hồ hắt lên. Không chỉ
có 3 hồ nước mát lành, trong khuôn viên chùa Keo còn có một cái giếng cổ
độc đáo được xây nên từ 33 chiếc cối đá cổ, thủng đáy. Tại sao lại là
cối đá thủng? Tương truyền rằng, đây chính là những cối đá dùng để giã
gạo nuôi thợ xây chùa, giã nhiều nên thủng. Đây là thông điệp mà những
người thợ muốn gửi rằng, có công mài sắt có ngày nên kim và cũng nhờ sự
kiên trì đó, chùa Keo đã được hoàn thành.
Nói đến chùa Keo, không thể không nói đến Tháp chuông, nó là biểu tượng
của chùa, biểu tượng của văn hóa tâm linh đã được giới thiệu trên rất
nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Tháp chuông là tác phẩm kiến trúc
độc đáo, cao 11,04m, được coi là tháp chuông cao nhất trong tất cả hệ
thống chùa ở Việt Nam. Nó hoàn toàn được kiến trúc bằng gỗ gồm 3 tầng,
mỗi tầng 4 mái, hệ thống chấn song cũng được làm bằng gỗ nhưng có họa
tiết rồng mây, hoa lá. Hiện nay, trong Tháp có treo một chiếc Khánh đá
cổ, dài 1m và chiếc chuông đồng cao 1m3, đường kính 0,9m được đúc vào
năm 1686 đời vua Lê Hy Tông và hai chiếc chuông nhỏ hơn cao 0,62m, đường
kính 0,69m được đúc vào năm 1796 thời Cảnh Thịnh.
Hàng năm, lễ hội chùa Keo diễn ra vào mùa Xuân từ mồng 4 Tết và hội mùa
Thu từ ngày 13 tháng 9 Âm lịch đến ngày Rằm chính hội với nhiều trò chơi
dân gian đặc sắc đã thu hút được hàng vạn du khách ở trong và ngoài
tỉnh đến tham dự. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao về hội chùa Keo:
Dù cho cha đánh mẹ treo
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Theo: baobaovephapluat.vn