Hà
Giang là mảnh đất tập trung đa dạng văn hoá các dân tộc Việt Nam. Nơi đây có
trên 20 tộc người cư trú và mỗi dân tộc đều mang đến một nét văn hoá độc đáo
riêng. Trong số đó đặc sắc nhất phải kể đến văn hóa của người Mông.
Nhắc
đến văn hóa người Mông là nói đến kiến trúc độc đáo của những ngôi nhà
truyền thống.
Ngôi nhà truyền thống của người Mông
Với môi trường sống ở trên các sườn núi cao,
khí hậu lạnh khắc nghiệt, đã ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc nhà ở của người
Mông nơi đây. Từ quan niệm sống, môi trường đã hình thành nên nét độc đáo trong
văn hóa kiến trúc của ngôi nhà trình, tường bằng đất, lợp ngói hay tranh là phù
hợp nhất, với ưu điểm vừa giữ ấm về mùa đông, mát mẻ trong mùa hè và lại có thể
chống được kẻ gian, thú dữ…
Đồng bào dân
tộc Mông rất chú trọng việc chọn đất làm nhà. Sau khi chọn được đất tốt, đất
lành, người ta tiến hành san nền, kê móng, trình tường nhà. Công việc trình
tường nhà được bà con dân tộc Mông tiến hành khá công phu với một số quy định
như người lạ không được vào khu vực nhà đang trình tường, nhất là phụ nữ. Để
trình tường nhà, bà con phải làm những chiếc khuôn gỗ có chiều dài 1,5 m, rộng
0,45 m – 0,5 m.
Khi trình
tường, người ta đổ đất đầy khuôn gỗ, dùng những chiếc vồ nền chặt đất. Đất dùng
để trình tường phải được loại bỏ sạch rễ cây, đá to, cỏ rác. Khi tiến hành
trình tường, người ta huy động vài chục thanh niên trai tráng trong làng đến
giúp; cứ như vậy khuôn nọ nối tiếp khuôn kia cho đến khi hoàn thành. Sau khi
trình tường xong, gia chủ sẽ tiến hành chọn ngày tốt, hợp với tuổi chủ nhà mới
được vào rừng chặt hạ cây cột cái, cây đòn nóc.
Nhà Trình tường của người Mông
Kiến trúc
ngôi nhà của người Mông tương đối thống nhất theo một khuôn mẫu, dù to hay nhỏ
đều phải có 3 gian 2 cửa (gồm một cửa chính, một cửa phụ và tối thiểu là 2 cửa
sổ). Ngôi nhà có thể có một hoặc 2 chái nhà, nhưng đều không liên quan trực
tiếp đến 3 gian nhà chính.
Ba gian nhà
chính của người Mông được sắp xếp như sau: Gian bên trái dùng để đặt bếp nấu
nướng và buồng ngủ của vợ chồng gia chủ; gian bên phải dùng để đặt bếp sưởi và
giường khách; gian giữa thường rộng hơn 2 gian bên và là gian để bàn thờ tổ
tiên, đồng thời cũng là nơi tiếp khách, ăn uống của gia đình. Phòng ngủ của vợ
chồng, con cái được bố trí riêng. Người Mông thường ngủ bằng phản gỗ hoặc giát
bằng tre mai đập giập.
Cửa chính
nhà của ngưòi Mông cũng phải tìm gỗ tốt để làm, nếu là tre nứa thì phải là thân
trúc hoặc mai già. Cửa bao giờ cũng mở vào trong chứ không mở ra ngoài. Người
Mông không sử dụng bản lề, then chốt bằng sắt mà hoàn toàn bằng gỗ, bởi người
Mông coi cửa mở ra đóng vào là lòng bụng con người, trong khi đó bản lề sắt
thép là những vật cứng được ví như dao kiếm. Ngoài cửa chính, nhà của người
Mông còn có cửa phụ, là lối để đưa đồ dùng cho người chết vào nhà lúc tang ma.
Chỉ khi đưa ra nghĩa địa mới đi qua cửa chính.
Một nét độc
đáo nữa trong cấu trúc nhà truyền thống của người Mông là tất cả các ngôi nhà
thường được xếp đá xung quanh vô cùng chắc chắn. Để có được hàng rào đá hoàn
chỉnh bao quanh ngôi nhà và mảnh đất rộng chừng 200 – 300 m2, gia chủ cùng với
người thân phải mất hàng tháng trời nhặt những mảnh đá vỡ quanh nhà về xếp
thành hàng rào đá. Những viên đá có kích cỡ khác nhau với nhiều góc cạnh được xếp
lèn vào nhau, tạo nên bức tường bao kiên cố, phẳng mà không cần sử dụng chất
kết dính nào. Chiếc cổng gỗ có mái và dán giấy đỏ xen giữa bờ rào đá trước nhà,
được người Mông trang điểm tạo nên vẻ ấm cúng giữa cái lạnh mùa đông ở Cao
nguyên đá.
Cùng với việc
làm nhà mới là làm chuồng gia súc. Chuồng gia súc được làm chếch với cửa chính,
tuỳ thuộc vào hướng gió. Để làm chuồng gia súc, người ta cũng phải xem tuổi gia
chủ, tính ngày tháng rồi mới làm. Người Mông rất yêu quý gia súc, có khi còn
làm chuồng gia súc tốt hơn làm nhà ở. Khi làm chuồng gia súc người HMông đều
thắp hương cúng ma chuồng, ma trại phù hộ cho gia súc hay ăn chóng lớn, dễ
nuôi.
Trải qua
hàng thế kỷ, người Mông Hà Giang ngày nay vẫn không ngừng sáng tạo để cải tiến
ngôi nhà truyền thống của mình cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, cũng như
trong sinh hoạt, lao động sản xuất mà vẫn không quên gìn giữ những nét đặc
trưng truyền thống của dân tộc.
Theo: Dân tộc Việt