Nếu
cần tìm những hình ảnh có tính lịch sử, thì chính trên trống đồng cho
thấy vài dạng nhà cổ xưa nhất, từ thời thị tộc nguyên thủy, cách đây hơn
2.500 năm. Có hai loại nhà, hoặc mái cong chéo ra hai phía như con
thuyền, hoặc mái tròn như mai rùa úp. Chúng tôi gọi tạm đó là ngôi nhà
cái và ngôi nhà đực. Hai kiểu thức mái đó hiện có thể thấy trong quần
thể tháp Chàm Po Klong Garai ở Phan Rang. Những ngôi nhà mái cong chéo
ra hai bên thì hiện còn có ở nhiều làng cổ Indonesia. Nhà này thời Đông
Sơn là ngôi nhà cộng đồng giống như đình làng, còn nhà mái úp mai rùa là
nhà dân sinh. Riêng ngôi nhà cộng đồng trở thành hình ảnh kiến trúc
tiêu biểu từng thấy trong đình làng, nhà Rông Tây Nguyên, nhà Gươl Cà
Tu.
Chúng ta có thể kê ra đây
những hình thức xây dựng dân sinh truyền thống: nhà tranh vách đất và
nhà tre thuần túy, nhà đất trình tường, nhà xây đá ong, nhà gạch vì kèo
gỗ, nhà vì kèo gỗ lợp ngói, nhà sàn Mường, Thái, Tày, nhà gạch mái thu
hồi (ở thành thị), nhà dài Tây Nguyên và Gươl Cà Tu, nhà gỗ gạch Huế và
Quảng Nam… Tên gọi và sự tiêu biểu của hình thức mỗi nơi có nét riêng,
do phong thổ, địa vực, tập quán vùng miền, song có thể nói tính thống
nhất của cách tổ chức không gian những ngôi nhà của nông dân Việt Nam
khắp cả nước tương đối như nhau, đồng thời có những nhóm sắc tộc cũng có
những hình thức xây dựng riêng biệt.
Nét
chung lớn nhất của xây dựng dân sinh Việt Nam truyền thống là không
hướng về sự vĩnh cửu, tuổi thọ của những ngôi nhà gỗ lợp ngói vài chục
năm phải tu sửa nhỏ, trăm năm tu sửa lớn, và đến hai trăm năm gần như
làm lại hoàn toàn. Những ngôi nhà xây dựng bằng tre, nứa và đất thì tuổi
thọ còn ngắn hơn và thực ra ngay từ đầu nó không phải là thiết kế bền
vững, tuổi thọ chỉ từ 10 – 20 năm. Tuy nhiên nhà trình tường và nhà đá
ong, phần tường lại khá bền vững, có thể lên đến hàng trăm năm, mặc dầu
vậy, nó gây cảm giác nặng nề mà người nông dân luôn muốn thay đổi.
Về
tất cả các mặt, người nông dân luôn thực dụng, nghĩ gần, ngôi nhà, thửa
ruộng là tài sản yêu quý mà họ luôn muốn giữ gìn lâu dài. Trách nhiệm
của người bố là làm ngôi nhà cho người con ở, và nếu truyền được đến đời
cháu càng tốt. Họ đã tìm được vật liệu gỗ, đặc biệt là gỗ lim có khả
năng duy trì ngôi nhà đến năm đời, nếu tính mỗi thế hệ từ 20 – 25 năm.
Song trên thực tế, không phải gia đình nào trong làng cũng làm được nhà
gỗ lợp ngói, mà luôn có đến 90 – 98 % nhà trong làng là tranh tre nứa
lá, đất và chút gỗ vì kèo (có thể). Thực tế này kéo dài cho đến tận thập
kỷ 1970 và trong chiến tranh thì hầu hết các nhà tập thể, trường học
xây dựng ở nông thôn khởi dựng là nhà tranh trát đất. Một nhà thơ viết
rằng: Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ, quả không sai và nó phản ánh
trước tiên bằng các hình ảnh nhà ở dân sinh. Có thể nói là tùy từng thời
gian và kinh tế cụ thể, có lúc nhà gỗ tăng lên, có lúc nhà tre đất tăng
lên, hình thức kiến trúc thì vẫn thế, nhưng khi nào nhiều nhà tre đất
là khi đó đang nghèo.
Khi một
người nông dân nghèo trong làng làm nhà, xây dựng một gia đình mới, cả
làng sẽ đến giúp anh ta. Tre thì anh ta phải chuẩn bị lấy - từ vài năm
trước, anh ta đã phải ngâm một bè tre - đất và rơm rạ là nguyên liệu độn
thì không khó kiếm, rau gạo nấu ăn cho cộng đồng hôm làm nhà cũng sẽ do
từng người đến giúp mang theo và tất cả sẽ ghi công nợ cho anh chàng
này, và anh ta cũng sẽ phải đi làm để trả nợ cộng đồng vào những dịp
khác.
Trước tiên người ta san
nền, đất được xới lên, bừa nhỏ, rồi đập xuống cho chặt. Những người khác
sẽ đục vì kèo tre nhanh chóng trong một buổi. Những thanh tre được chẻ
vuông buộc gá vào vì kèo làm cốt vách, sau đó rơm được băm ra, trộn với
đất và bùn rồi trát lên khung cốt tre làm tường (đan đứng). Mái nhà sẽ
được rải rui mè, rồi lợp bằng chính rơm rạ đánh thành từng mê gọn gàng.
Xong xuôi bốn góc sẽ được căng dây chống bão bằng tre vặn và mái được
chặn bằng các đòn tre phòng khi có gió lớn tốc mái. Công trình này gồm
ba gian, gian giữa lớn nhất cho cả nhà, hai gian buồng hai chái, một
dành riêng cho đôi vợ chồng, một dành cho mẹ già, hoặc kho chứa nông cụ,
thực phẩm. Sau này tất cả đồ đạc: bàn ghế, chõng, chạn, giường cũng đều
làm bằng tre cả. Có thể nói tất cả đời sống vật chất của người nông dân
đều liên quan đến tre. Ngôi nhà tre có chiều sâu chừng hai thước rưỡi,
chiều rộng (mặt ngang nhà) là năm thước, chiều cao tính từ chân đến nóc
chừng ba thước rưỡi, đó chính là tổ ấm của người nông dân nghèo Bắc bộ
xưa. Đôi khi người ta lợp mái xuống rất thấp, ra vào nhà lúc nào cũng
phải cúi. Tuy vậy thì trong nhà khá mát về mùa hè, và ấm vào mùa đông.
Người nông dân sống trong căn nhà tre chẳng có màn cũng chẳng có chăn,
nếu muỗi thì dùng cái đĩa sành cho trấu và chút than củi hun khói; nếu
rét thì đắp chiếu hoặc làm ổ rơm.
Có
thể nói ngôi nhà sàn của người Mường và người Thái là một hình thức nhà
ở dân sinh cổ xưa nhất ở Đông Nam Á, mà cho đến nay nó vẫn còn giá trị
thẩm mỹ cũng như công năng. Ngôi nhà sàn chính là tiền thân của kiến
trúc đình làng Bắc bộ. Giữa nhà sàn Mường - Thái và đình làng Bắc bộ có
sự chuyển tiếp và những tương quan kết cấu gần gũi. Cũng là nhà sàn
nhưng nhà sàn của tầng lớp trên ở Mường là Lang đạo và ở Thái là Phìa
tạo mới đáng kể, còn nhà sàn của tầng lớp bần cùng Mường -Thái cũng chả
hơn gì nhà tre đất của nông dân Bắc bộ. Nhà sàn Mường vốn được làm từ
truyền thuyết con rùa dạy họ làm nhà bằng chính bản thân nó. Mai rùa là
mái nhà, bốn chân là bốn cột chính. Ngôi nhà sàn Mường cũng được xác
định như vậy về cấu trúc. Bốn cột chính được dựng ở bốn phía đầu nhà
sàn, trên đầu cột gác các vì chéo, trên đó đặt đòn nóc, khoảng từ các
cột chính theo chiều ngang ngôi nhà sẽ có những cột phụ phân khoang và
chịu lực. Tất cả các cột đều được chôn sâu xuống đất từ thước rưỡi đến
ba thước, còn tất cả các đòn trên vì kèo chỉ gác lên nhau mà không nối
bằng kết cấu mộng. Đây là sự tổng kết lâu đời của nhà sàn Mường vốn ở
địa hình có lũ núi và đất lở, nếu điều đó xảy ra, ngôi nhà cũng không bị
đổ và vì kèo chỉ xô lệch chứ không vặn gẫy. Trên vì kèo, người ta rải
các đòn tre để lợp mái gianh. Mái gianh được lợp rất dầy, vươn tới gần
hết cửa sổ, đua ra xa khỏi khung chính của ngôi nhà, và được xén tròn
như mai rùa; sàn nhà cao trên mặt đất từ hơn một thước cho đến hơn hai
thước. Mặt sàn rải bằng tre bương, hoặc nứa đập dập. Ngôi nhà chia hai
cầu thang, một cầu thang chính đi vào gian đầu, gần bếp nấu trà của gia
chủ; một cầu thang phụ đi lên bếp lớn của cả nhà để phụ nữ mang nước
theo đường đó. Đối diện với bếp phụ nấu trà là cửa sổ, cột chính và bàn
thờ, nơi đó chỉ dành riêng cho ông chủ nhà và thần linh.
Ngôi
nhà sàn là sản phẩm của đời sống núi rừng nhiều muông thú, mưa rừng, lũ
cục bộ, khí hậu nóng ẩm và đứng về mặt tinh thần, nó phù hợp với lối
sống không có Tam giáo (Nho – Lão - Phật), ngoài tín ngưỡng Mo Mường và
cộng đồng gia đình – làng bản ít tham vọng. Ngôi nhà không phân chia
khoang buồng tuyệt đối, không có bàn thờ chính giữa trang trọng, không
lấy nguyên tắc đăng đối chính trục ngôi nhà phân định thứ bậc, đi về
không khóa cửa, không có những sinh hoạt quá riêng tư diễn ra đồng thời
với cách sống của từng người. Khi tách ra khỏi người Mường, người Việt
(Kinh) cảm thấy ngôi nhà sàn không đáp ứng được cuộc sống mới và những
quan niệm Tam giáo của mình. Đứng về mặt xây dựng, việc chuyển từ nhà
sàn xuống nhà đất cũng dễ dàng, nhưng đứng về mặt phân chia không gian
theo tập tục thì nhà sàn hoàn toàn khác với nhà dưới đất dạng ba gian
hai chái, hoặc năm gian lấy gian giữa làm trục đối xứng. Ngôi nhà của
người nông dân Việt Nam dù là nhà tre trát đất, nhà trình tường, nhà đá
ong, nhà gỗ lợp ngói thì cách phân chia không gian và tín ngưỡng được
sùng bái cũng giống nhau. Ngôi nhà này sẽ cố gắng ngoảnh mặt về hướng
đông nam thuận khí, mát về hè, ấm về đông, trước mặt có sân, ao cá, sau
lưng có vườn, bên sườn có nhà ngang làm bếp, chuồng lợn, chuồng trâu, và
nhà vệ sinh, trồng cau trước mặt, chuối sau lưng, hàng xóm kề bên cũng
theo mô hình như vậy. Nhà nghèo thì ba gian, nhà khá thì năm gian, gian
giữa khoảng chính giữa hai cột là ban thờ - bịch thóc, tấm phản ngựa
chính giữa trước ban thờ, nơi chỉ dành riêng cho ông chủ và khách quý,
hai gian hai bên kê giường cho người nhà, hai buồng cho vợ chồng, cha mẹ
già và kiêm kho nông cụ, ngoài chái nhà là cối giã gạo, hiên rộng có
lắp dại cửa cho trẻ con chơi và đặt cối xay thóc.
Người
phụ nữ Mường có thể thay trang phục bằng cái váy của mình, được dùng
như màn quây, và có thể đứng ở bất cứ đâu làm việc đó, nhưng người phụ
nữ Kinh nhất thiết phải vào buồng. Trong ngôi nhà của người nông dân
Việt (Kinh), tính gia trưởng và tôn ty trật tự gia đình, cũng như xã hội
được đề cập ngay trong phương án kiến trúc. Điều đó thể hiện trong cách
phân chia không gian đối xứng và một ban thờ chiếm hết đáy gian giữa,
thậm chí nếu có hương án, ngai thờ, hoành phi, câu đối, cửa võng, nó
choán hết gian giữa. Trong gia đình, mọi việc nhất nhất tuân theo quyết
định của ông chủ - người cha. Nếu cha đi vắng thì người con giai trưởng
thay thế, mâm cơm tiếp khách chỉ có thể là hai người này với khách mà
thôi. Từ ngôi nhà dân sinh cho đến ngôi đình, ngôi chùa cũng theo nguyên
tắc không gian như vậy, và qua hàng vài trăm năm, nó ngấm vào tiềm thức
người nông dân những nguyên tắc xã hội chung, sự chấp nhận những tập
tục dưới tư tưởng của Nho - Lão - Phật.
Nếu
như vì kèo nhà sàn Mường chỉ có gác các hoành xà lên nhau, mà không có
mộng lắp từ thành phần nọ đến thành phần kia, nhà tre chỉ có buộc hay
đục con xỏ đơn giản, thì nhà vì kèo gỗ của người Việt (Kinh) đã hoàn
thiện cấu trúc có tính khoa học.
Có
bốn loại vì kèo cơ bản: vì kèo chồng rường, vì kèo giá chiêng, vì kèo
giá chiêng kết hợp chồng rường, và vì kèo giả thủ (Huế). Vì kèo chồng
rường có lịch sử lâu đời nhất, thấy được trong di tích kiến trúc chùa
Dâu, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc… thời Trần, thế kỷ 13 – 14. Chồng rường
có nghĩa là các thanh dầy đặt lên nhau liên tục lắp vào hai thanh xà
nóc chéo xuống của khung tam giác, giữa các con rường có đấu kê, khoảng
cách giữa các thanh rường rất thấp. Bộ mái lợp ngói dầy rất nặng, những
mái đình cổ ngói được lợp dầy đến nửa thước, và sà thấp đến 2/3 chiều
cao của ngôi đình, lại vươn cong ở bốn góc, với bộ mái như vậy lực đè
rất lớn tác động đến khung vì kèo chịu lực, nên khung vì kèo làm theo
lối chồng rường dầy đặc rất khỏe. Và thực ra chỉ có bốn cột chính, làm
thành hai vì kèo chịu lực đè trọng tâm vào ngôi nhà.
Loại
vì kèo giá chiêng, với khung rỗng như cái giá treo chiêng, yếu hơn,
nhưng thông thoáng, có thể nâng cao ngôi nhà, phù hợp với các bộ mái
không quá nặng, lợp ngói vừa phải.
Để
nâng được chiều cao ngôi nhà mà vẫn chịu lực đè tốt, người ta kết hợp
hai loại vì kèo này, gọi là giá chiêng kết hợp chồng rường, đồng thời
lắp rất nhiều ván chạm khắc dầy vào các khoảng rỗng ở vì kèo (cốn) và
tuyến ngang vừa trang trí vừa phân tán lực đè.
Vì
kèo giả thủ (tay giả) có nhiều cột đỡ lửng từ vì kèo vươn lên đỡ các
đòn nóc và các xà chạy tuyến ngang. Hình thức này có lẽ được cải tiến từ
chi tiết đấu củng của kiến trúc gỗ Trung Quốc.
Bốn
loại vì kèo trên được sử dụng chủ yếu ở xây dựng quy mô trong các kiến
trúc tôn giáo và cung đình, nhà gỗ dân sinh chủ yếu dùng loại giá chiêng
đơn giản, hoặc loại kết hợp với chồng rường cũng đơn giản với khung vì
kèo không quá cao to. Nhà gỗ dân sinh cao cũng chỉ bốn thước, lòng nhà
không quá sâu, chừng ba thước, song chiều ngang có thể phát triển, từ ba
gian, năm gian, những nhà quá khá giả mới làm trên năm gian, tức là bảy
gian, chín gian, thậm chí ở Ninh Bình chúng tôi đã thấy một ngôi nhà cổ
13 gian, dài hơn cả cái đình.
Ngôi
nhà gỗ dân sinh được làm rất hoàn thiện từ chi tiết đến tổng thể, vì
không chỉ vì kèo, mà cả tường bao, tường ngăn đều làm bằng ván gỗ cả.
Trên cơ sở khung vì kèo, người ta sẽ phân chia không gian, bao giờ cũng
có hai gian buồng hai đầu, tường phân cắt được lắp thành từng ván nhỏ,
ép dưới các cây gỗ bổ đôi hình bán trụ tròn, phần tường tiếp giáp với vì
kèo trên được trang trí rất cầu kỳ. Xung quanh chân cột có hàng xà thấp
làm ngưỡng cửa chạy hết mặt tiền ngôi nhà đến hai gian buồng. Trẻ con
phải leo qua, chó khó nhẩy vào trong nhà. Mặt sau nhà thì tiếp giáp với
vườn, mặt trước thường nối thêm đòn tay (hoặc tiền kẻ hậu bảy, hoặc tiền
bảy hậu kẻ tùy theo) cho rộng mái hiên. Hiên nhà rộng tính từ khung cột
ra ngoài mặt nền, giọt gianh, có khi đến thước rưỡi và ngăn với thềm
sân bằng dại cửa, tạo không gian trống thoáng mát cho người ngồi chơi,
dệt vải, đan lát, uống trà. Nền nhà được tôn cao, với ba bậc lên (tam
cấp) xây bằng gạch bó đá, các chân cột đều kê đá (thạch tảng), công
trình này có thể tồn tại hai ba trăm năm mới cần tu sửa. Tất nhiên đây
là đỉnh cao của kiến trúc dân sinh nông thôn, và gia đình phải tương đối
giàu có mới làm được ngôi nhà như vậy. Một ngôi nhà như thế không dưới
hai năm thi công, đấy là chưa kể các đồ nội thất và đồ tế tự mất hàng
chục năm sau mới sắm đủ. Cho nên người nông dân coi ngôi nhà là công
trình lớn nhất của đời người, mặc dù thuê thợ xây dựng, nhưng người nông
dân luôn tự hào chính mình làm ra ngôi nhà đó, nên nói rằng: tôi làm
nhà năm nay, tôi vừa làm nhà, tôi vừa xây nhà, nhà tôi vừa cất… chứ
không ai nhắc gì đến phường thợ nữa. Họ là những kẻ vô danh thuộc giai
tầng thứ ba, còn thấp hơn cả nông dân.
Vào
cuối thế kỷ 19 đầu 20, khi kiến trúc phương Tây có mặt ở Việt Nam,
người ta thấy xây dựng gạch vôi xi măng cũng tiện và có thể xây cất
những công trình cao rộng hơn kiến trúc truyền thống, nhiều làng ngoại
thành Hà Nội và nhiều nhà giàu nông thôn có xu hướng kết hợp kiến trúc
gỗ truyền thống với kiến trúc gạch mới. Về cách phân chia không gian,
hoặc vẫn được làm theo kiểu không gian đối xứng với ban thờ ở giữa như
trước, hoặc phân buồng nửa Tây nửa Ta với căn nhà kéo dài theo tuyến sâu
từ mặt đường đến đáy ngõ, có tường bao quanh, thay vì dàn trải theo
chiều ngang. Cái này có thể thấy trong xây dựng đầu thể kỷ ở các làng
Ngọc Hà, Chèm, Nhân Chính và một lớp người mới nửa thị dân nửa nông dân
cũng hình thành ven kinh đô cổ kính.
Theo: Tia Sáng