Không lâu sau khi Bảo tàng Áo dài đầu tiên ở Việt Nam khai trương, Lễ
hội áo dài TP.HCM lần đầu tiên cũng vừa diễn ra tại KDL Đầm Sen, có thể
xem như những nỗ lực trong việc quảng bá một trang phục đã thành biểu
tượng của Việt Nam.Truyền thống là truyền thống nào?
Theo
các sử liệu để lại còn khá rõ ràng thì áo dài Việt Nam ngày nay (nhận
diện căn bản qua các nữ sinh thường mặc) là câu chuyện của những nhà
cách tân trang phục đầu thập niên 1930, trong đó có họa sĩ Cát Tường
(bút danh Lemur Cát Tường, 1912 - 1946), nhóm Tự Lực văn đoàn và họa sĩ
Lê Phổ (1907 - 2001).
Trên tờ Phong hóa (số ra ngày 23/2/1934) và cả tuần báo Ngày nay (ngày 13/11/1936), Cát Tường in bài Y phục phụ nữ,
có thể xem là tuyên ngôn về canh tân áo dài và trang phục Việt Nam (vì
họa sĩ này còn vẽ mẫu cho nhiều trang phục khác). Trong này có mấy đoạn
đáng chú ý, đầu tiên là về quan niệm: “Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để
che thân thể, song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình
độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay
không, cứ xem y phục của nước họ ta cũng đủ hiểu”.
Trong các thập niên 1930 - 1940, tà áo dài cao hơn mắt cá chân chừng 20 cm, thường mặc với quần trắng hoặc đen
Tiếp
theo là hướng triển khai trong việc thiết kế: “Bộ áo của các bạn gái
rồi đây phải ra thế nào? Trước hết, nó phải hợp với khí hậu xứ ta, với
thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, với mực thước của thân
mình mỗi bạn, sau nữa, nó phải gọn gàng giản dị, mạnh mẽ và có vẻ mỹ
thuật, lịch sự. Nhưng dù thế nào nó cũng phải có cái tính cách riêng của
nước nhà mới được. Các bạn là phụ nữ Việt Nam, vậy áo của các bạn phải
có một vẻ riêng để người khác khỏi lầm các bạn với phụ nữ nước ngoài,
như nước Tàu, nước Pháp, nước Nhật Bản chẳng hạn..., mà cả nước Lô Lô
nữa, nếu đó cũng là một nước”.
Cho
nên, khi tiếp cận với khái niệm, kiểu như “lễ hội áo dài nhằm tôn vinh
giá trị bản sắc văn hóa truyền thống và vẻ đẹp tinh túy của chiếc áo dài
- trang phục truyền thống của dân tộc Việt Nam”, cần phải nghĩ lại hai
chữ “truyền thống”. Có những truyền thống lâu đời đến hàng ngàn năm,
hàng trăm năm, nhưng cũng có những truyền thống chỉ chừng một thế kỷ (ví
dụ đạo Cao Đài, Hòa Hảo, đờn ca tài tử, tranh kiếng Nam Bộ, cải lương,
phở, áo dài…), thậm chí chỉ vài chục năm (ví dụ ca khúc truyền thống
cách mạng, bia truyền thống…). Áo dài là trang phục truyền thống của
Việt Nam, một câu chuyện khởi đi từ đầu thế kỷ 20, chứ không phải đồng
hành với mấy ngàn năm dựng nước.
Công
bằng mà nói, chỉ cần vài chục năm mà việc lăng-xê áo dài (kiểu của Cát
Tường, Lê Phổ…) trở thành trang phục khá phổ biến (trong nhà trường,
công sở, lễ tiệc, Tết…), quả là thành công vượt bậc. Tuy truyền thống
của nó ngắn hơn rất nhiều, nhưng ngày nay áo dài lại nổi tiếng hơn, nếu
so với áo tứ thân, áo ngũ thân, áo bà ba, yếm, áo gấm, nón lá, khăn
đóng... của Việt Nam.
Thiết kế áo dài của Lemur Cát Tường
Thách thức chung
Theo
thống kê sơ bộ của UNESCO về gìn giữ trang phục truyền thống, từ cấp độ
quốc gia, châu Âu hiện còn khoảng 25 nước, châu Phi còn gần 20 nước,
châu Á còn 20 nước, châu Mỹ còn 15 nước, Trung Đông còn 6 nước… Trong
khu vực châu Á, riêng Đông Nam Á và Thái Bình Dương còn 10 nước và vùng
lãnh thổ giữ được. Đặc điểm chung là các nước này đang phải gióng lên
hồi chuông về việc gìn giữ, lăng-xê, bởi bối cảnh “đồng phục” của toàn
cầu hóa đang xâm thực nhanh chóng, khiến cho việc mặc trang phục truyền
thống gặp thách thức rất lớn.
Một
đất nước được xem là hình mẫu trong việc hiện đại hóa cao độ mà vẫn giữ
được truyền thống xa xưa là Nhật Bản cũng gặp khá nhiều khó khăn với
kimono (dành cho nữ và nam) của họ. Trong chuyên luận Kimono và Nhật Bản
(công bố năm 2009) nhà nghiên cứu Jeffrey Hays cho biết: “Trong một
khảo sát, 70% phụ nữ trẻ khi được hỏi nói rằng họ quan tâm đến việc mặc
một bộ kimono, nhưng ít người thực sự có thời gian để làm điều đó”.
Còn trên tờ The Telegraph hồi tháng 10/2010, trong bài phóng sự Nghệ thuật thủ công kimono ở Nhật đang chết
(Kimono Making In Japan Is A Dying Art), Danielle Demetriou dẫn lời
chuyên gia Soichi Sajiki (thuộc gia đình có kinh nghiệm hơn 200 năm về
chế tác kimono): “Ngành công nghiệp kimono của Nhật đang gặp khó khăn
nghiêm trọng trong việc tìm cách truyền nghề thủ công quý giá cho thế hệ
sau. Từ cái kén tơ để làm tơ cho đến sản phẩm hoàn chỉnh, kimono có hơn
1.000 công đoạn, mà mỗi công đoạn thường thực hiện bởi thợ thủ công
chuyên biệt. Nó có thể mất 40 năm để làm chủ một kỹ thuật duy nhất… Hầu
hết thợ thủ công ngày nay đang trên 80 tuổi và trong vòng 10 năm tới,
nhiều người sẽ qua đời”.
Từ năm 1939, luật sư Nguyễn Thị Hậu đã lăng-xê quần áo theo lối mới của nhà tạo mẫu Lemur Cát Tường nơi công sở và công cộng
Chính
vì vậy mà một kimono hoàn hảo kèm phụ kiện (nhất là của phụ nữ) có giá
thành trung bình rất cao, từ 10 ngàn đến 100 ngàn USD, giá thuê cũng ở
mức 2 ngàn USD/ngày, khiến nhiều người không có tiền để mặc. Từ năm 1990
đến năm 1998, doanh thu từ việc bán kimono giảm 30%; riêng năm 1998,
trung bình có hai công ty kimono bị phá sản mỗi tháng. Nhìn ở khía cạnh
này, áo dài Việt Nam có nhiều cơ hội và cơ may hơn, khi việc may đo chỉ
cần tối thiểu một người, mà giá thành thì khá dễ chịu.
Hàn
Quốc cũng gặp khó khăn tương tự, Trung tâm Chấn hưng hanbok (thuộc cấp
Bộ) của họ đầu tư khá nhiều công sức để nghiên cứu và phát triển hanbok.
Cũng như Nhật, bên cạnh cách chế tác truyền thống, họ còn canh tân cách
may và giảm giá thành sản phẩm để nhiều người có thể sở hữu, hoặc mua
sắm bộ mới. Bên cạnh đó là các lễ hội, các sự kiện khích lệ việc mặc.
Nếu
nhìn vào khía cạnh canh tân kimono hay hanbok trong khoảng 20 năm qua,
việc mà Cát Tường, Tự Lực văn đoàn, Lê Phổ làm với áo dài đầu thập niên
1930 quả là tiền phong. Nếu thiếu sự canh tân này thì khó có được việc
hàng chục triệu nữ sinh đã, đang và sẽ lần lượt mặc áo dài, bên cạnh đó
là việc phổ biến áo dài ở lễ hội, công sở, cưới hỏi, ngày Tết… Thế
nhưng, trong khi tại nhiều vùng nông thôn, nữ sinh vẫn mặc áo dài các
ngày trong tuần, thì tại các thành phố lớn (ví dụ TP.HCM, Hà Nội), nhiều
trường chỉ mặc một ngày trong tuần, thậm chí trong tháng.
Rõ
ràng đời sống đô thị, thao tác công nghiệp, làn sóng toàn cầu hóa, cùng
sự khắc nghiệt của thời tiết (đang leo thang) khiến cho việc mặc áo dài
thường xuyên gặp khá nhiều khó khăn. Đây gần như là một quy luật xuôi
chiều (kiểu như đô thị hóa nông thôn, chứ hiếm khi nông thôn hóa đô
thị), nên bảo tàng áo dài, lễ hội áo dài, cuộc thi áo dài… sẽ trở thành
những sự kiện bên lề cuộc sống, có sức gìn giữ, bảo tồn, nhưng khó lan
tỏa theo kiểu ứng dụng hàng ngày.
Nhân
Lễ hội Áo dài TP.HCM lần 1/2014, ông Lã Quốc Khánh (Phó giám đốc Sở
VH,TT&DL TP.HCM) cho biết: “Năm 2015, chúng ta kỷ niệm 40 năm ngày
thống nhất đất nước. Để dịp lễ đặc biệt này thêm tưng bừng, ý nghĩa, Lễ
hội Áo dài 2015 sẽ được thiết kế quy mô hơn, ấn tượng hơn. Khi đó chúng
ta có thể hy vọng rằng, TP.HCM có thêm một tên gọi thật trìu mến, thân
thương: Thành phố áo dài”. Đây là một nỗ lực rất lớn của thành phố đông
dân nhất nước, hy vọng sẽ thành công để Việt Nam có được lễ hội áo dài
thực thụ, giống như Brazil với lễ hội baiana, Nhật với kimono, Hàn Quốc
với hanbok…
Theo: thethaovanhoa.vn