Người
Mạ là cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở phía Nam Tây Nguyên. Trải qua
quá trình phát triển của dân tộc, cuộc sống người Mạ có nhiều đổi thay,
mặc dù vậy người Mạ vẫn duy trì được bản sắc văn hóa độc đáo của mình
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong
hoạt động sản xuất, Người Mạ chủ yếu là canh tác nương rẫy luân canh và
xen canh. Công cụ sản xuất là con dao, cuốc, gậy chọc lỗ, liềm gặt…
Nương của người Mạ trồng xen canh bên cạnh cây lúa là ngô, đỗ, bầu, bí,
thuốc lá… Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, lợn, gà, dê để tiến hành nghi
lễ hiến tế. Một số gia đình nuôi ngựa và nuôi voi vào việc vận chuyển.
Nghề
thủ công của người Mạ là nghề phụ trong gia đình, các nghề thủ công đem
lại hiệu quả cao như nghề rèn sắt, dệt vải khung nhỏ, đan mây tre, gốm…
Người Mạ ở ven sông Đạ Dương có kĩ thuật làm thuyền độc mộc để đi lại,
vận chuyển, đánh cá trên sông.
Làng
của người Mạ thường tọa lạc trên bãi phẳng sườn đồi trong thung lũng
gần sông suối tiện nguồn nước sinh hoạt. Mỗi làng tập trung khoảng 5 -
10 ngôi nhà sàn dài, cũng có khi gồm vài ba chòm xóm, mỗi chòm xóm có
một hai ngôi nhà sàn dài.
Nhà
sàn người Mạ hiện nay phổ biến sàn chỉ cao 0,4 đến 0,6 mét, có những
ngôi nhà sàn còn thấp hơn ngôi nhà sạp, trong khi ngôi nhà sàn cổ trước
kia sàn thường cao trên 1,5 mét. Trong nhà thường mỗi gia đình chiếm 3
khoang: khoang giữa chỗ gần cửa bếp, trên bếp bắc giàn để các thứ hạt
giống như thóc, ngô, đỗ và các thứ cần bảo quản khô như thuốc lá, thịt
sấy khô; hai khoang hai bên được bố trí làm nơi nghỉ ngơi, tiếp khách,
nơi để đồ dùng nhà bếp, ống nước. Xung quanh nhà ở thường được dựng
nhiều kho lúa để cất lúa, ngô.
Về
trang phục, phụ nữ Mạ thường mặc váy quấn dài qua bắp chân, trên mặc áo
ngắn ngang thắt lưng, chui đầu, kín tà, hai vạt sau trước đều bằng
nhau. Váy áo đều may ngang khổ vải, dệt nhiều đường hoa văn chạy dọc,
nên quanh váy, quanh thân áo, ống tay áo có nhiều đường hoa văn chạy
song song. Trước đây, đàn ông Mạ chủ yếu đóng khố, cởi trần. Khố có hai
loại, đơn giản chỉ là một đoạn vải màu chàm đen, có loại dệt cầu kì hai
đường hoa văn, chạy dài hai bên mép khố, đầu có nhiều tua dài, đính hạt
cườm.
Người
Mạ có tập quán cà răng, căng tai, phụ nữ thích đeo các đồ trang sức.
Hiện nay thì tục này không còn nữa, song trong cộng đồng vẫn còn nhiều
người già có vành tai rất rộng bởi vì đã từng đeo những vòng to bằng gỗ
hay ngà voi ở lỗ tai. Trong các ngày lễ hội, phụ nữ Mạ còn đeo thêm các
vòng xoắn tay, xoắn chân hay vòng cổ to bản, vòng hạt cườm nhiều màu
sắc… Thanh niên đeo nhiều vòng đồng ở cổ tay có ngấn khắc chìm như là ký
hiệu của các lễ hiến sinh tế thần linh, cầu may cho bản thân.
Gia
đình người Mạ là gia đình nhỏ phụ quyền, hôn nhân theo chế độ một vợ,
một chồng. Khi con trai đến tuổi trưởng thành (khoảng 16, 17 tuổi), cảm
mến cô gái nào thì báo cáo cha mẹ để tìm người mai mối. Lễ nghi bắt buộc
trong ngày cưới là đôi trai gái trao vòng tay cho nhau, nếu chưa thực
hiện có nghĩa là nghi lễ chưa được chính thức. Sau hôn nhân thường cư
trú bên nhà chồng, nhưng tàn dư mẫu hệ và hình thức cư trú song phương
vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Tập quán phổ biến là sau lễ cưới chàng rể
thường ở nhà vợ, sau khi hoàn tất các lễ vật mới đưa vợ về nhà mình. Một
số nơi có tập quán nhà gái đi hỏi chồng và cư trú luân phiên mỗi bên
vài năm cho đến khi cha mẹ không còn nữa thì ở hẳn bên có cha mẹ còn
sống.
Trong
đám tang người Mạ, khi có người qua đời, người làng khỏe mạnh được cử
vào rừng tìm gỗ làm áo quan. Thi hài được mặc đồ quý nhất và bỏ vào quan
tài những đồ trang sức. Người thân họ hàng mỗi người cắt một nhúm tóc
bỏ vào trong áo quan để người chết có cái lợp nhà và tang chủ chia nhiều
đồ dùng cho người chết như: dao, rìu, đồ dùng bếp… những đồ này phải
làm cho nó méo mó, đập rúm đi vì đó là đồ dùng của ma chứ không phải cho
người. Sau khi chôn cất người chết, người Mạ bỏ mả luôn, tang chủ phải
kiêng cữ 7 ngày không được đi rẫy, đi rừng.
Người
Mạ theo tín ngưỡng đa thần. Cúng thần vào những dịp vui như: Cưới hỏi,
sinh đẻ, lên nhà mới, kết nghĩa anh em và cúng thần vào những dịp chẳng
lành như ốm đau, tang ma, dịch bệnh, thiên tai… Lễ hội độc đáo nhất của
người Mạ là Durê hay còn gọi là lễ ăn cơm mới. Hàng năm tùy theo khả
năng kinh tế gia đình và mức độ thu hoạch của mùa màng mà bà con định ra
quy mô hành lễ. Lễ nhỏ ở gia đình vật tế là heo, gà, dê. Lễ lớn ở mức
cộng đồng có thể mổ trâu. Lễ thường tổ chức dịp cuối năm sau mùa thua
hoạch.
Người
Mạ có một kho tàng văn học truyền miệng phong phú, đó là truyền thuyết
về sự khai thiên lập địa gọi là yealian. Người Mạ có câu ca dao, tục
ngữ, truyện ngụ ngôn, truyện cười phản ánh về đời sống lao động hồn
nhiên, về thời tiết, mùa vụ… Họ cũng có những điệu hát dân ca. Nhạc cụ
của người Mạ gồm có bộ chiêng đồng 6 chiếc, trống lớn bịt da trâu, khèn
bầu 6 ống, bè trên 4 ống, bè dưới 2 ống, tù và, đàn lồ ô 6 dây, sáo trúc
3 lỗ gắn vào vỏ trái bầu.
Cũng
như nhiều dân tộc khác trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, do nhiều lý
do khách quan và chủ quan khác nhau nên văn hóa truyền thống của người
Mạ đã có phần bị mai một. Do vậy, chú trọng vào việc bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Mạ, nhất là các lễ hội,
hoa văn, cồng chiêng, nhạc cụ dân tộc và nghề truyền thống là rất cần
thiết, đòi hỏi chúng ta phải biết trân trọng, bảo vệ, phát huy và coi đó
là nét văn hóa đặc sắc cần giáo dục cho các thế hệ mai sau./. Theo: Làng Việt
|