Nét
mặt tượng trong các ngôi chùa miền Bắc không chung chung vô tính như
quy phạm, mà khá sinh động, hồn hậu gần gũi với "nhân thể" người nông
dân Đồng bằng Bắc bộ và mang vẻ đẹp nữ tính hóa
1. Phật giáo có mặt trên mảnh đất Việt Nam có lẽ hơn
2.000 năm qua. Những pho tượng Phật sớm nhất bằng gỗ sao tìm thấy trong
nền văn hóa Phù Nam ở Đồng bằng sông Cửu Long, có niên đại đầu và sau
Công nguyên. Đó là những tượng Phật đứng được tạc nguyên từ một cây gỗ
dưới dạng Phật đi hành hương, có thể là tượng trưng cho quá trình đi về
Đông Nam Á của Phật giáo từ Ấn Độ.
Từ đó cho đến thế kỷ 11, người ta thấy được nhiều tượng Phật bằng đá,
từ trong các di tích Đồng Dương của nền văn hóa Champa và từ các ngôi
chùa thời Lý (1010 - 1225). Từ sau thế kỷ 15 trở đi, tượng Phật bằng đá
nhường chỗ cho tượng Phật gỗ và đất phủ sơn có mặt hầu hết trong các
ngôi chùa đồng bằng Bắc bộ. Tượng bằng đồng cũng có, nhưng không nhiều
và không tiêu biểu
Những pho tượng Phật từ dòng Ấn Độ - Kh’mer có lẽ có một tiêu chuẩn
thẩm mỹ khác hẳn với những tượng Phật chịu ảnh hưởng của tạo hình điêu
khắc Phật giáo Trung Quốc. Những pho tượng thời Phù Nam hoặc rất cao,
có thể đến "chín đầu" (chiều cao của pho tượng bằng 9 lần phần đầu của
pho tượng đó), hoặc tương đối cân đối như người thật, với tỷ lệ "bảy
đầu". Nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ thời đầu có liên quan mật thiết với tạo
hình nghệ thuật Hy Lạp, nên tương đối cân đối và trọng vẻ đẹp thể chất
mỹ mãn.
2. Từ đó, chảy về dòng dân gian, điêu khắc Phật giáo
thay đổi khá nhiều, tính cân xứng không còn được giữ nguyên nữa, người
ta yêu thích những pho tượng Phật hồn hậu, ít cân đối, thường rất
thấp, đôi khi chỉ là 5, 6 đầu và khép mình trong một khối gỗ
Những pho tượng Phật mẫu chùa Dâu, có niên đại thế kỷ 17 -18, hoặc
sớm hơn, nhưng chịu ảnh hưởng sâu sắc của dòng điêu khắc Ấn Độ - Kh’mer
, lại kết hợp được những vẻ đẹp của điêu khắc Bắc bộ và điêu khắc
phương Nam. Tượng Phật mẫu chùa Dâu Mây - Mưa - Sấm - Chớp có thân
hình phụ nữ nõn nà khêu gợi, thân trần phía trên, phía dưới quấn sa
rông, không ở đâu trong đồng bằng Bắc bộ giống thế. Các tượng Phật Bắc
bộ mặc rất nhiều quần áo, có phần giống trang phục phong kiến đương
thời.
Tượng Bồ tát, thế kỷ 17 - 18, chùa Nễ Châu (Hưng Yên) được làm bằng đất và gỗ phủ sơn
3. Những người thợ dân gian Bắc bộ làm cho các ngôi chùa làng căn cứ vào cuốn Tạc tượng lượng độ kinh
để làm tượng Phật. Cuốn sách này hiện có một bản lưu tại thư viện Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam, vốn được in từ chùa Xiển Pháp, Hà Nội trong thế
kỷ 19.
Cuốn Kinh chỉ dẫn rất chi tiết cách tạo hình một pho tượng Phật đứng
và ngồi ra sao, khi phân chia cơ thể con người làm 108 thốn. Thốn là
một đốt ngón tay. Tuy nhiên sự chỉ dẫn sách vở quá chi tiết cũng không
dễ được tiếp nhận cụ thể, các phường tạc tượng dân gian, lưu truyền ba
công thức truyền miệng như sau: Tọa tứ lập thất, Nhất diện phân lưỡng kiên, Nhất diện phân tam trùng.
Tọa tứ lập thất là một tượng ngồi là bốn đầu, tương đứng là bẩy đầu. Nhất diện phân lưỡng kiên là chiều ngang của mặt bằng nửa chiều ngang hai đỉnh vai. Nhất diện phân tam trùng
là ba khoảng cách bằng nhau trên khuôn mặt (theo chiều dọc), từ chân
tóc đến chân lông mày, bằng từ chân lông mày đến đỉnh mũi, bằng từ đỉnh
mũi đến cằm.
Sự phân chia này là khá hợp lý và tiếp cận với tỷ lệ Hy Lạp cổ điển.
Tuy nhiên thì nếu làm theo đúng như vậy thì điêu khắc Việt Nam đã chả
có phong cách gì, người thợ dân gian làm tượng theo cảm quan thực tế
nhiều hơn, các pho tượng Phật thường có đầu hơi to, lưng hơi cúi, cổ
thường ngắn hoặc chìm vào vai, nên trông qua có vẻ thiếu cân đối, nét
mặt không chung chung vô tính như quy phạm, mà thường mang vẻ đẹp của
khuôn mặt phụ nữ và có cá tính...
Vì thế trông những pho tượng Phật Việt Nam khá sinh động, hồn hậu gần
gủi với nhân thể người nông dân Đồng bằng Bắc bộ và mang vẻ đẹp nữ
tính hóa.
4. Từ thế kỷ 16 trở đi, ít có đền chùa nào không sử
dụng tượng đất và gỗ sơn son thếp vàng. Việc sơn thếp tượng cho phép
người ta chuyển hẳn lối làm tượng hoàn chỉnh từ một chất liệu, như
tượng đá, sang lối làm tượng lắp ghép nhiều phần, đục đẽo thô, đắp sửa
bằng đất, rồi sơn thếp ra ngoài.
Quá trình sơn thếp không khác lắm so với những họa sỹ Trường Mỹ thuật
Đông Dương làm tranh sơn mài bằng sơn ta truyền thống. Kỹ thuật mài
thực ra cũng được sử dụng trong quá trình làm tượng.
Thoạt tiên đẽo từng phần pho tượng gỗ, có thể phân chia các khối đầu,
thân, chân và tay (trong tượng ngồi) rồi lắp ráp có mộng vào với nhau.
Đây mới là những khối hình học cơ bản, chưa có đường nét chi tiết, sau
đó hom bó bằng đất phù sa, mùn cưa trộn với sơn ta thành một cái cốt
tượng, như là tấm vóc làm tranh sơn mài.
Đến quá trình này người ta bắt đầu làm các chi tiết mặt mũi, áo quần,
hoa văn bằng đất trộn sơn, như một pho tượng hoàn chỉnh, chưa sơn
thếp, rồi sau đó tiến hành sơn cánh gián cầm, dán vàng bạc cẩn thận
"đông đặc" sau đó (nhộm phẩm mầu một số chi tiết, trên áo quần hoa
văn...), mài nhẵn, rồi quang ra ngoài một lớp sơn bóng (được pha trộn
giữa sơn ta và dầu chẩu).
Tượng Quan âm Nam Hải, thế kỷ 16, chùa Bối Khê (Hà Nội), gỗ phủ sơn
Những tượng này khi làm xong cũng chưa đẹp ngay, do lớp sơn cánh gián
nâu còn dầy, bề mặt tượng chưa trong, nhưng dần dầnqua tháng năm càng
ngày nước sơn càng thắm đượm, độ bóng căng và trầm sâu nhấn mạnh tính
trầm tư mặc tưởng của một pho tượng Phật linh thiêng. Lớp vàng bạc lót
phía dưới lớp sơn cánh gián làm cho mầu sắc bên trên thêm sáng nhưng
trầm.
Nghệ thuật này được gọi là tô tượng, xưa kia điêu khắc gọi là "điêu
tô": "Điêu" là khắc xuống, đục đi, "tô" là đắp lên vẽ lên. "Tô" vẽ là
khâu quan trong bậc nhất, pho tượng có đẹp hay không là nhờ khâu này,
nên thường do các nghệ nhân cao tay thực hiện.
5. Khi khảo sát các pho tượng gỗ phủ sơn thế kỷ 16,
chúng tôi thấy quá trình hom bó không quá được chú trọng, người ta đã
đục đẽo pho tượng tương đối hoàn chỉnh, lớp sơn phủ bên ngoài không có
tính tô vẽ như các tượng gỗ phối hợp với đất phủ sơn từ thế kỷ 17 trở
đi.
Những pho tượng thế kỷ 16, thường được sơn thếp trực tiếp với lớp lót
trong cùng đơn giản, ví dụ như pho tượng Quan âm Nam Hải, chùa Hạ,
Vĩnh Phú, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Những tượng chân
dung quý tộc thế kỷ 17, trong nhiều đền chùa cũng được tạc khối gần
như hoàn chỉnh, và sơn thếp có tính trực tiếp như vậy với rất nhiều mầu
sắc sao cho giống y phục, trang sức người thật mang hàng ngày. Các chi
tiết hoa văn, tràng hạt đều được đục chạm nổi trên bề mặt, chứ không
phải đắp sửa bằng đất, tiêu biểu là chân dung các bà hoàng vợ vua Lê
Thần Tông chùa Mật, sau này ảnh hưởng đến lối làm chân dung quý tộc chùa
Bút Tháp.
Đất và gỗ phủ sơn từ thế kỷ 17 là chất liệu được sử dụng phổ biến,
cốt bằng gỗ, chi tiết bề mặt sửa bằng đất. Vàng và son là chất liệu
chính trong quá trình tô tượng Phật. Phần lớn các pho tượng cổ được
thếp lớp vàng khá dày, đôi khi là ba bốn lớp, mỗi lớp dày từ 1-2mm.
Thành thử có nhiều pho tượng lớp sơn dày tới nửa phân.
Lượng vàng qua nhiều lần sơn thếp của ba bốn trăm năm, mỗi pho tượng
có lẽ đến vài kg. Thực ra đây là kết quả của nhiều lần tô tượng, người
ta không cạo lớp sơn cũ, mà cứ chồng lên lớp sơn mới với lượt thếp vàng
mới, càng sơn thếp nhiều lớp tượng càng có vẻ đẹp mỹ mãn, và trầm sâu
khó tả. Sau một thời gian dài nhiều lớp sơn bay dần, tùy từng tháng năm
lộ ra lúc thì là lớp vàng son rực rỡ, lúc là lớp cánh dán nâu trong
sâu, lúc lại lộ những lớp sơn then lót đen bóng trong vô cùng, khiến
cho người ta không biết thực chất pho tượng đã được sơn thếp như thế
nào.
6. Việt Nam không thiếu gỗ và đất có thể làm được
điêu khắc, tuy nhiên tùy từng nơi và tùy từng loại tượng mà người ta
làm tượng đất hoàn toàn, hay làm tượng đất và gỗ phối hợp (cốt gỗ, bọc
đất phủ sơn).
Nhiều Phật động với hàng trăm tượng nhỏ làm hoàn toàn bằng đất, nhiều
tượng cỡ lớn như tượng Kim cương, Hộ pháp thích hợp với chất liệu đất
hơn là gỗ.
Với tượng nhỏ người ta có thể đắp đất đặc, nhưng với tượng lớn thì
chỉ đắp đất ở vỏ tượng còn bên trong hoàn toàn rỗng. Để làm như vậy,
thoạt tiên phải đan một cái cốt tượng bằng tre, nhồi rơm vào đó, đắp
đất sét trộn sơn, mật và vôi, rơm băm nhỏ, hoặc trộn giấy bản vào vôi
đất, đắp ra ngoài cốt tre lấy hình thù ban đầu. Vỏ tượng khô đi co lại
bóp chặt vào cốt tre cho đến khi không co lại nữa, người ta mới rút rơm
ra khỏi lõi tượng và đắp sửa bên ngoài cho ra hình thù. Quy trình còn
lại thì giống như sơn thếp cho một pho tượng gỗ thôi.
Tượng Kim Cương chùa Mía, thế kỷ 18, đất và gỗ phủ sơn
Nhiều tượng cần râu tóc, mắt thì người ta làm rời bằng tóc người và
con mắt thủy tinh mua từ bên Trung Quốc, gọi là nhỡn Tàu. Con ngươi của
mắt có thể đung đưa nên người ta đục hai lỗ nhỏ thông nhau gần mắt,
chỉ cần chút gió lay là con ngươi hơi chuyển động, nom như mắt người
thật.
Tượng bát bộ Kim cương chùa Mía, hộ pháp chùa Thầy (Hà Nội) đều là
điển hình của nghệ thuật tượng đất đắp thế kỷ 18, 19. Tượng đất hút sơn
ta tương đối nhiều nên cần làm nền bề mặt tượng thật kỹ và sơn những
lớp sơn dày chống thấm, tuy nhiên so với tượng gỗ phủ sơn, nó chóng
phai màu và tróc màu nhanh hơn. Khuôn mặt của các tượng đất Kim cương
và Hộ pháp, người ta thường dùng bột ngà voi để tạo độ trắng và ấm, kỹ
thuật này khá tốn kém, nên không phải nơi nào cũng thực hiện được.
7. Để làm một pho tượng có kích thước tương đương
với người thật, giá thành thời phong kiến, tương đương với 40 thúng
thóc. Sự sơn thếp khá đắt đỏ, nên cần có đóng góp tài trợ của nhiều thí
chủ.
Khi tô tượng và đúc chuông cần một lượng vàng lớn, nên số lượng vàng
thường không được tính vào giá thành mà là phần riêng cho thí chủ tài
trợ. Người ta trực tiếp tháo nhẫn thả vào nồi đồng đang nấu, hay mua
nhiều quỳ vàng đưa cho thợ thếp lên tượng trước mặt mình. Những lá vàng
dát tượng ngày xưa không quá mỏng và tiết kiệm như vàng quỳ ngày nay,
nên thực chất lượng vàng thếp trên tượng cổ khá lớn.
"Khai quang yểm nhỡn" và "yểm tâm" tượng là nghi lễ quan trọng để pho
tượng trở thành thần thờ cúng, được làm trong lễ "hô thần nhập tượng".
Ngày "khai quang" phải là ngày lành tháng tốt, con mắt mới được vẽ và
mắt thủy tinh mới được lắp, sau đó các lỗ yểm tâm được đặt các hạt quý
vào, bao gồm một hạt thóc, một hạt vừng, một hạt đỗ, một hạt vàng, một
hạt bạc, một hạt kim cương, một hạt mã não, một hạt hổ phách... gói
trong một túi lụa vàng. Tuy nhiên, cũng tùy theo kinh tế mà "yểm tâm",
không nhất thiết đầy đủ như trên, chủ yếu là ngũ cốc và hạt quý. Lỗ yểm
tâm đặt sau lưng tượng có thể là giữa lưng, có thể là giữa lòng, tùy
theo, sau khi hô thần nhập tượng, pho tượng mới chính thức được coi là
thần thiêng để thờ cúng.
Khi sửa chữa, di chuyển, thường có lễ đưa gói yểm tâm ra và nhập vào
sau khi yên vị mới. Ở Nhật Bản, mỗi pho tượng còn có ngọc tượng, dưới
hình thức thờ rời, khi dịch chuyển tượng đi đâu đó người ta phải làm lễ
rước ngọc tượng đi đầu. Đôi khi người ta còn thiết kế bài vị, văn cúng
cho tượng, trong đó kê khai chức vụ, lý lịch của thần tượng trong ngôi
đền, chùa nào đó.
Dựng chùa đặt tượng cũng luôn được kể lại trong văn bia. Mỗi pho
tượng thờ luôn gắn với một sự tích, một truyền thuyết và một vị trí
nhất định trong kiến trúc tôn giáo, đó là linh hồn của ngôi chùa ngôi
đến – vị thần sẽ kết nối thế giới tâm linh với con người, đưa con người
đến cõi cực lạc, cũng như thường nhật là đấng cứu nhân độ thế.
Theo Phan Cẩm Thượng - TT&VH