Huyền thoại về cuộc chiến tranh không đổ máu
Thành Lồi tọa lạc trên đồi Long Thọ, ở địa bàn hai phường Thủy Xuân
và Thủy Biều (TP.Huế, Thừa Thiên-Huế). Sách Đại Nam nhất thống chí ghi
chép: “Ở xã Nguyệt Biều, H.Hương Thủy, thế truyền đây là chỗ ở của vua
Chiêm Thành gọi là thành Phật Thệ”. Từ trung tâm TP.Huế theo đường Lê
Lợi đi về phía ga Huế, rẽ theo đường Bùi Thị Xuân đi khoảng 4 km, rẽ
trái theo đường Huyền Trân Công Chúa 500 m là đến di tích.
Huyền thoại dân gian của vùng Thừa Thiên-Huế từ lâu vẫn lưu truyền
rằng, trong quá trình mở cõi về phương nam của quốc gia Đại Việt, giữa
người Việt và người Chăm đã xảy ra một cuộc chiến giành chủ quyền vùng
đất Thuận Hóa. Hai dân tộc đã đi đến một thỏa ước, cùng nhau xây đắp
thành trong một thời gian được ấn định, nếu bên nào xây dựng được thành
cao hơn thì bên còn lại phải rút lui để nhường đất lại cho bên thắng
cuộc. Người Chăm thật thà đã ngày đêm huy động sức dân đào đất, xây
thành. Khi còn thời hạn một đêm nữa là đến ngày giao ước, phía người
Việt vẫn không có bất kỳ động tĩnh nào. Người Chăm đã vui mừng tổ chức
ăn uống mừng công cho trường thành của mình đã xây dựng cao. Sau một đêm
no say, sáng hôm sau khi thức dậy, quân dân người Chăm nhìn sang bên
kia chiến tuyến của người Việt đã thấy hiện lên một tòa thành nguy nga
tráng lệ. Tòa thành to lớn và cao hơn thành của người Chăm vạn lần. Thời
gian đã hết, người Chăm đã không còn cơ hội để chiến thắng nên đã tự
nguyện rút quân, nhường đất cho người Việt. Tòa thành mà người Chăm đã
tốn bao nhiêu công sức xây dựng đêm ngày đó chính là Thành Lồi hôm nay.
Còn tòa thành nguy nga tráng lệ của người Việt hóa ra chỉ là tòa thành
giả được làm bằng giấy.
Truyền thuyết trên không chỉ được lưu truyền trong dân gian của
người Việt mà điều thú vị là trong sử thi của đồng bào dân tộc Tà Ôi -
Pa Cô... ở miền núi phía tây Thừa Thiên-Huế cũng được nhắc đến. Theo đó,
sử thi của người Tà Ôi đến nay vẫn lưu truyền rằng, cái tên Tà Ôi (có
nghĩa là đi lên phía núi) nhằm nhắc nhớ về nguồn gốc của họ từ miền xuôi
đi lên phía núi. Theo sử thi Tà Ôi, họ chính là dân tộc đã thua cuộc
trong cuộc thi xây đắp thành ở miền xuôi, buộc phải nhường lại đất cho
người anh em để đi lên phía núi, sinh cư, lập nghiệp.
Không chỉ trong sử thi của người Tà Ôi được truyền miệng qua bao
đời mà theo ghi chép của H.Parmentier (1871 - 1949), nhà khảo cổ học
người Pháp, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Chăm ở VN và các nước Đông
Dương, có kể lại rằng “khi bị bắt làm con đường từ Thành Lồi đến Vạn
Niên, những người miền núi (người dân tộc Tà Ôi, Pa Cô) cho rằng tòa
thành (Thành Lồi) là của tổ tiên họ. Vì làm con đường nên ngôi miếu quốc
vương Chiêm Thành bị phá, những người miền núi phản ứng dữ dội, họ kéo
đến tòa khâm sứ đòi phạt vạ. Và để giải quyết tình hình, triều đình nhà
Nguyễn đã xây dựng một ngôi miếu khác cạnh đó, những người miền núi này
thường lui tới ngôi miếu Hồi này (miếu quốc vương Chiêm Thành) mà cầu
khấn”.
Hoang phế
Theo tài liệu lý lịch di tích của Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng
Thừa Thiên-Huế (đơn vị đang quản lý di tích quốc gia Thành Lồi), Thành
Lồi là một trong những công trình kiến trúc quân sự khá độc đáo của
người Chăm. Thành có quy mô tương đối lớn, vừa được đào đắp, xây dựng
kiên cố, vừa lợi dụng địa thế tự nhiên (có sông Hương làm hào chắn) tạo
nên một công trình phòng thủ vững chắc. Tuyến phòng thủ ở bờ nam sông
Hương như bức bình phong che chắn cho phía bắc kinh đô của Chămpa ở phía
nam. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, “Thành Lồi là một thành Chiêm lớn,
xây dựng trên vùng đồi Dương Xuân Thượng với đầy đủ hệ thống hào, hệ
thống thoát nước...”, niên đại của Thành Lồi không thua kém thành Trà
Kiệu, khoảng thế kỷ 5 - 6. Như vậy, Thành Lồi ra đời khá sớm, trước thế
kỷ thứ 8.
Tài liệu của Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng Thừa Thiên-Huế mô tả
thành tọa lạc trên đồi Long Thọ (độ cao từ 30 - 50 m), phía nam, tây,
đông đều có các khe nước chảy qua, phía bắc giáp sông Hương. Nhìn tổng
thể, Thành Lồi có dạng gần hình vuông, chu vi dài khoảng 2 km, với cấu
trúc khép kín bốn mặt. Các lũy thành nằm đúng theo các hướng tây - nam -
đông - bắc. Cấu trúc mặt cắt của tòa thành gồm 3 tầng: Tầng thứ nhất từ
bề mặt của thành xuống 1,8 - 2 m bằng đất nện chặt; tầng thứ 2 dày 0,5 -
1 m được đắp bằng gạch, đá cuội xen lẫn và tầng thứ 3 cách bề mặt 2,5 -
3 m dày 1,8 - 2 m được đắp bằng đất nền chặt. Nguyên vật liệu xây đắp
Thành Lồi chủ yếu bằng đất đồi, gạch và đá cuội. Kỹ thuật xây gạch theo
kiểu “mài chập liên kết thành khối vững chắc, không có mạch vữa như kỹ
thuật xây dựng các công trình kiến trúc Chăm”.
Do trải qua hàng thế kỷ, chịu sự tác động của thiên nhiên và con
người nên ngày nay các dấu tích liên quan đến Thành Lồi đều đã ít nhiều
thay đổi. Hiện tại, chỉ còn đoạn thành phía nam là tương đối bảo lưu
được dấu tích, nên Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng Thừa Thiên-Huế đã chọn
đoạn thành này để khoanh vùng bảo vệ di tích, với tổng diện tích của cả
hai khu vực là 18.126,4 m2, trong đó khu vực 1 có diện tích là 12.085,3
m2, khu vực 2 có diện tích là: 6.041,1 m2.
Theo thanhnien.vn