Tượng rồng trên ấn "Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo" bằng vàng, thời
Nguyễn, niên hiệu Thiệu Trị 7 (1847), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung
đình triều Nguyễn.
Hình kỳ lân trang trí trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện
vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Theo truyền thuyết, kỳ lân
là loài vật có móng guốc, thân phủ vẩy cá, là biểu tượng cho lòng nhân
từ, mỗi khi nó xuất hiện là điềm báo có thánh nhân, minh quân ra đời.
Hình tượng này phổ biến từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), khi Nho giáo phát
triển đến đỉnh cao.
Hình kỳ lân móng rồng trên hũ gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Tượng kỳ lân bằng gỗ dùng để trang trí kiến trúc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.
Tượng kỳ lân trên ấn "Đề thống tướng quân" bằng đồng thời Lê sơ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1515).
Tượng rùa trên ấn "Quốc mẫu chi bảo" làm bằng bạc và vàng, thời Nguyễn,
niên hiệu Gia Long thứ 1 (1802), trong bộ sưu tập hiện vật cung đình
triều Nguyễn. Rùa là con vật được linh hóa, biểu trưng cho sự bền vững
trường tồn, thường được tạc trong thức đội bia đá, tháp Phật hoặc trang
trí trên đồ vật.
Khai gốm hoa lam vẽ hình Long mã cõng Hà đồ (trái) và Thần quy chở Lạc
thư (phải) thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 - 1920). Long mã là một
dáng hóa thân của kỳ lân, thường được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy
từ tích Vua Vũ trị thủy). Từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 - 18), rùa
thường xuất hiện thành cặp với long mã trong đề tài về Hà đồ - Lạc thư,
cặp biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch - tư tưởng triết học của người Á
Đông về quy luật của sự biến đổi, được áp dụng trong nhiều mặt của cuộc
sống.
Tượng long mã bằng đồng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.
Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Theo truyền
thuyết, phượng là vua của các loài chim, mang nhiều đức tính, phẩm hạnh
cao đẹp. Phượng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, ẩn mình khi loạn lạc
nên nó là biểu tượng cho thái bình, thịnh trị. Ngoài ra, phượng còn là
hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ quý tộc, hoàng gia thời phong kiến. Ở
Việt Nam, hình tượng này xuất hiện trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật ở hầu
hết các thời đại lịch sử.
Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Cặp phượng chầu bằng gỗ, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18.
Hình phượng trang trí trên hộp trầu bằng vàng thời Nguyễn, niên hiệu
Minh Mạng thứ 5 (1824), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều
Nguyễn.
Hình chim phượng trang trí trên lống ấp vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Tượng chó đá thời Lê Trung Hưng (trên trái), hổ đá thời Trần (trên
phải), nghê đá thời Lê Trung Hưng (dưới). Chó là linh vật gần gũi với
đời sống tâm linh của người Việt Nam, thường được tạc bằng đá trấn giữ
trước cổng nhà hoặc cổng đình, đền, miếu... để cầu phúc, trừ tà. Một số
nơi có tục thờ Chó. Hổ là loài vật được người Việt linh hóa, biểu trưng
cho quyền uy và sức mạnh giống như sư tử. Hổ thường được đặt trấn giữ ở
cổng các công trình kiến trúc cổ. Trong điện thờ Mẫu thường có ban thờ
Ngũ Hổ tượng trưng cho Ngũ Hành, trấn giữ 5 phương.
Hình ngựa có cánh trên bình gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật
tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Ngựa có cánh (Pegasus) là ngựa
thần biểu tượng cho sự thông thái trong văn hóa phương Tây, được truyền
vào Việt Nam từ thời Lê sơ (thế kỷ 15) trên đồ gốm xuất khẩu thông qua
đặt hàng của thương nhân phương Tây. Hình tượng này tiếp tục được sử
dụng trong trang trí đồ gốm thời Mạc - Lê Trung Hưng.
Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Hạc
vốn là linh vật của đạo Lão, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục,
trường sinh bất tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam hạc trở thành biểu tượng của
cá Phật giáo, Nho giáo... thường được mô tả đứng trên lưng rùa hoặc
trong đề tài tiên cưỡi hạc ở đình làng.
Theo: kienthuc.net.vn