Đối
với các dân tộc Tây Nguyên nói chung và các dân tộc bản địa Mạ, K’Ho,
Churu của Lâm Đồng nói riêng, gùi là một vật dụng quen thuộc luôn gắn bó
với đồng bào trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Đối với họ, chiếc gùi
không chỉ đơn thuần là một vật dụng mà còn chứa đựng bao yếu tố văn hóa
khác. Bởi thông qua nó, họ đã gửi gắm tình cảm cũng như sự cảm nhận về
thiên nhiên, cuộc sống theo cách nhìn, cách nghĩ của riêng mình. Già làng thôn Kala, xã Bảo Thuận, huyện Di Linh ngồi chuốt từng sợi lồ ô để đan nong, đan gùi. Ảnh: PHAN NHÂN
Để
đan được một chiếc gùi, đặc biệt là gùi hoa, đồng bào dân tộc đã phải
chuẩn bị và tiến hành khá công phu từ khâu chọn nguyên liệu đến các bước
tạo hoa văn và hoàn thành sản phẩm.
Nguyên
liệu để đan gùi bao gồm: lồ ô, nứa (đơr), dây mây (sê rơ - gă), cây sim
rừng (Pănh), cóc rừng (gơ - nắp - bơ`s), cây pơ - rô, vỏ cây pết, cây
tỳ hoặc lá cây sơ - đoăh. Nguyên liệu được khai thác trực tiếp ở các đồi
núi quanh địa bàn cư trú và được sơ chế trước khi đưa vào sử dụng. Dụng
cụ dùng trong đan gùi ngoài xà gạt, dùi nhọn để dùi lỗ, dao nhọn có cán
cong rất sắc bén dùng để chuốt sợi mây, vót nan còn có khung đan sử
dụng tạo dáng gùi. Khung có hai loại: khung tròn và khung vuông và có
kích thước to nhỏ khác nhau. Tùy thuộc vào loại gùi cần đan mà người đan
sẽ sử dụng khung cho phù hợp.
Để
đan gùi phải dùng hai loại nan: đó là nan xương và nan thường. Nan
xương chắc và nhỉnh hơn. Phần giữa của nan chừa to bản để đan phần đáy
gùi, nan xương rất quan trọng, nó quyết định kích thước và độ cứng của
gùi. Tùy theo từng loại gùi cần đan mà người ta tạo nan có độ dài ngắn
khác nhau.
Gùi
được bắt đầu đan từ đáy. Khi đan người ta dùng nan xương có chừa phần
to bản ở giữa đan phần đáy trước. Khi đã đan xong phần đáy, người ta bắt
đầu làm móng gùi (Gơ - lăh - Mun). Móng là hai đoạn cành sim rừng hoặc
lồ ô to bằng ngón tay trỏ hoặc nhỏ hơn một chút. Hai đầu được vạt nhọn,
cây móng được cắm chéo ở chính giữa dưới đáy gùi và cài chặt vào bốn góc
của đáy gùi.
Sau
khi cài xong cây móng, người đan phải dùng động tác thật khéo léo vừa
đan vừa bẻ góc, uốn cong nan xương để bắt đầu lên thân gùi. Sau bẻ góc
thì bắt đầu cài khung để đan thân gùi. Đan tới đâu thì dịch khung ra tới
đấy. Khung giúp cho thân gùi được tròn đều hoặc vuông đều từ đáy lên
miệng.
Có
hai kiểu đan gùi hoa cơ bản mà đồng bào K’Ho ở Di Linh vẫn thường gọi
là Băng cha Kiang và Băng cha ờs. Băng cha Kiang là kiểu đan tạo hoa văn
hình chữ V mà đồng bào gọi là hình gấp khúc cùi chỏ. Băng cha ờs là
kiểu hoa văn hình thoi (hình quả trám).
Cách
đan: Muốn đan theo kiểu Băng cha Kiang thì sau khi bắt đầu lên phần
thân gùi người ta chia thành 4 khoảng bằng nhau. Từ bốn điểm giữa sẽ đan
một lên một xuống còn các điểm khác vẫn đan hai lên hai xuống. Khi đến
lượt lại thì tất cả vẫn đan lồng đôi (hai lên hai xuống) bình thường.
Như vậy tại các điểm đan một lên một xuống sẽ bắt đầu dần tạo ra hai
đường xiên hoa văn hình chữ V. Khi đan tới một khoang nhất định, người
ta lại đan một lên một xuống tại 4 điểm dọc theo 4 điểm mốc trước đó để
tạo đường xiên làm hoa văn gấp khúc lên xuống dạng chữ V lần hai. Thường
thường trên mỗi thân gùi tạo được 3 đến 4 đường hoa văn này.
Băng
cha ờs còn được gọi là Băng cha thường. Kiểu này đan đơn giản hơn kiểu
trước và nó tạo ra hoa văn hình thoi. Để đan gùi kiểu này người đan cũng
chia gùi thành bốn phần bằng nhau và tại 4 điểm giữa đan một lên một
xuống để làm mốc tạo hoa văn. Sau đó đan lồng hai bình thường. Như vậy
tại các điểm đan một lên một xuống sẽ dần dần tạo ra một góc và hai cạnh
xiên của hình thoi. Khi đến một khoảng nhất định, muốn tạo góc khác thì
tại điểm cuối của các đường xiên (2 cạnh) lại đan một lên một xuống để
đổi hướng cho đường xiên. Sau đó tiếp tục đan cho đến khi hai đường xiên
gặp nhau tạo thành hai cạnh tiếp của hình thoi.
Sau
khi đan xong phần thân gùi người ta tiếp tục làm vành miệng, kết quai
gùi, làm đế gùi, dây ràng và trang trí cho gùi. Tất cả các khâu này đều
được tiến hành khá tỉ mỉ và rất khéo léo, công phu. Đặc biệt là khi tết
mắt công (măc - brạ) để trang trí trên thân gùi. Thường thường mỗi gùi
có 3 mắt công (măc - brạ). Xung quanh miệng gùi (ở mép dưới vành miệng)
có cài những túm sợi hoặc len đã được cắt sẵn để làm hoa, các cụm hoa
sợi này được bố trí cách nhau một khoảng đều đặn.
Đế
gùi thường được làm sau cùng để tùy thuộc vào độ lớn nhỏ của đáy gùi mà
uốn cho vừa. Đế gùi thường được làm bằng gỗ cóc rừng vạt mỏng. Sau đó
đo cho vừa bằng cạnh vuông của đáy gùi rồi bắt đầu uốn cong theo hình
bông hoa 4 cánh. Mỗi cánh tựa sát vào một góc của đáy gùi. Sau đó kết
chặt đế với 2 cây móng và cả phần đáy gùi.
Màu
sắc sử dụng để trang trí hoa văn chủ yếu trên gùi là màu đỏ, đen được
lấy từ vỏ, lá cây rừng nếu sử dụng nan nhuộm. Nhưng đồng bào dân tộc Tây
Nguyên cũng ít dùng màu để nhuộm nan, sợi để đan gùi hoa mà thường lợi
dụng chính bản chất của nan nứa, lồ ô để tạo màu làm nổi bật các đường
nét hoa văn. Nghĩa là khi đan gùi hoa, họ sẽ dùng toàn bộ nan cật, các
nan đều để nguyên cật xanh, riêng nan xương được cạo sạch lớp cật xanh
mỏng ở bên ngoài cho nhạt hơn.
Sau
khi đan xong thì người ta mang gác trên giàn bếp một thời gian, lúc này
khói và bồ hóng ăn vào các nan gùi tạo ra hai màu đậm nhạt rõ rệt (nan
nguyên cật có màu nâu đậm, nan được cạo cật sẽ có màu vàng nhạt) làm nổi
bật các đường nét hoa văn. Ngoài hai loại hoa văn chủ đạo nói trên,
đồng bào dân tộc bản địa Lâm Đồng còn đan các loại gùi có trang trí hoa
văn hình mặt trời, hình mai rùa, hình móng chân chó...
Gùi
hoa thường được sử dụng trong các dịp lễ hội, khi đi đám cưới, đi chợ,
đi chơi và làm gùi nhỏ trong lễ đặt tên cho bé. Vì vậy gùi hoa được đan
rất kỳ công bởi ngoài giá trị của một vật dụng nó còn giúp cho các chàng
trai Tây Nguyên chứng tỏ được sự tài hoa, khéo léo của mình trước các
cô gái và cộng đồng. Nhưng thật đáng tiếc, hiện nay những kỹ thuật tinh
xảo của đan gùi hoa đang có nguy cơ bị thất truyền và hầu như chỉ có
người già là còn biết đan gùi hoa. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
một phần là do thiếu nguyên liệu, một phần là ngày nay với sự xuất hiện
của những đồ dùng giá rẻ, tiện dụng và phù hợp với cuộc sống hiện đại
như làn, giỏ xách, ba lô… đã ảnh hưởng nhiều tới nghề đan lát nói chung
và đan gùi nói riêng. Vì vậy chúng ta cần sớm có những dự án, chính sách
thích hợp để khuyến khích, hỗ trợ giúp bà con bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa độc đáo này./. Theo: BáoLâmĐồng
|