Nếu mặc định
người chơi cổ vật phải có rất nhiều tiền thì trường hợp của anh Nguyễn
Hữu Hoàng tại Huế quả là… trật lất! Trong khi đó, nhà nghiên cứu văn hóa
Hồ Tấn Phan lặn lội tìm mua “đồ vứt đi” ở khắp hang cùng ngõ hẻm, từ
làng quê đến thành thị chỉ để đọc sử ẩn sâu dưới đáy sông Hương mà trước
đây chưa ai làm được.
Có duyên với đồ vua
Đó là nhận xét chung trong giới
chơi đồ cổ mỗi khi nhắc đến anh Nguyễn Hữu Hoàng - nhà sưu tầm cổ vật
không chỉ trẻ tuổi nhất Việt Nam mà còn sở hữu bộ trang phục đặc biệt
quý hiếm, có giá trị về mặt văn hóa lịch sử, gồm long bào, áo hoàng hậu,
trang phục cung nữ, quan quân quần thần thời nhà Nguyễn. Phần lớn bộ
sưu tầm độc nhất vô nhị này đã được anh hiến tặng để Bảo tàng Lịch sử TP
Hồ Chí Minh bảo quản và giới thiệu với bạn bè trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, nhà sưu tầm Nguyễn Hữu Hoàng đang sở hữu khoảng trên 1.000 cổ
vật khác.
Xuất thân trong một gia đình trung lưu, bố làm chủ võ
đường Bạch Hổ đời thứ 20 tại Huế, Nguyễn Hữu Hoàng có điều kiện học cao
để ghi danh bảng vàng. Nhưng học đến lớp 11, anh đột ngột đưa ra lý do
làm mọi người sửng sốt: nghỉ học để sưu tầm đồ cổ. “Hình như một số đồ
dùng trang trí trong gia đình đưa đường chỉ lối cho tôi niềm đam mê xưa
nay chưa từng thấy trong dòng tộc. Cứ hết giờ học trên lớp là tôi lại mê
mẩn ngắm nghía họa tiết hoa văn chén bát, bình hoa, ấm trà bằng sứ của
gia đình… Và đến lúc không thể kiềm hãm được nữa” - Hoàng tâm sự. Hành
trình hơn 20 năm âm thầm đi theo “tiếng gọi” cổ vật mở đầu là những lần
rong ruổi từ làng này qua làng khác. Ban đầu chỉ là những ngôi làng
trong vùng rồi sau đó đến các tỉnh thành ở miền Trung. Mỗi chuyến đi của
anh thường kéo dài 5 đến 7 ngày, nhiều lúc còn hơn nửa tháng. Hoàng kể:
“Giờ nghĩ lại thấy buồn cười. Đi sưu tầm đồ cổ bằng xe đạp!... Có lúc
gặp đồ quý giá nhưng trong túi không đủ tiền, đành nuốt nước bọt đạp xe
về nhà phụ nghề chạm khắc, gom đủ tiền rồi quay lại mua. Mỗi lần như vậy
vui lắm. Nhưng sướng nhất là lúc bắt gặp trang phục cung đình triều
Nguyễn lưu giữ tại các bản đồng bào Vân Kiều ở huyện Hướng Hóa và
Đakrông của tỉnh Quảng Trị”.
|
Nhà sưu tầm Nguyễn Hữu Hoàng nâng niu trang phục quan đại thần triều Nguyễn. |
Người chơi và sở hữu cổ vật
sưu tầm từ những gia đình người Kinh ở thành phố hay vùng nông thôn thì
khá nhiều. Nhưng sở hữu bộ trang phục cung đình triều Nguyễn mua và đổi
từ các gia đình đồng bào dân tộc Vân Kiều sinh sống rải rác ở vùng Lìa -
cái tên rùng rợn, ám chỉ sự cô lập, đi dễ khó về nơi biên giới Việt -
Lào của tỉnh Quảng Trị quả là hiếm thấy. Đặc biệt, người Vân Kiều coi
trọng những đồ vật ấy như báu vật. Y phục quan lại, họ có thể mở ra mặc
vào dịp lễ tết. Những hoàng bào thêu hình rồng 5 móng (áo quan đại thần
văn, võ rồng 4 móng - PV) thì cất nguyên tại vị trí trang trọng nhất
trong ngôi nhà và thắp hương tôn thờ. Hoàng nhớ lại: “Hồi đầu, muốn mua
hay đổi lấy một món đồ cổ nào của đồng bào Vân Kiều phải đi bộ cả mấy
ngày liền. Có khi đến nơi, người ta chưa ưng bán, đành ngậm ngùi ra về
rồi lần sau lại tìm đến… Có người đồng ý bán nhưng nói là báu vật ông bà
nên bắt mình ở lại một thời gian nếu không có dấu hiệu về sự thay đổi
trong gia đình của họ thì mới bán…”.
Nói về bộ trang phục cung
đình Huế, nhà sưu tầm cổ vật Nguyễn Hữu Hoàng thật thà, lúc đầu chỉ biết
đó là những bộ quần áo cổ có hoa văn đẹp và rất độc đáo. Bởi vốn kiến
thức cổ vật xưa nay mình có được chỉ toàn đồ gốm sứ. Trong khi, ở Bảo
tàng cung đình Huế chỉ lưu giữ những trang phục này qua ảnh, còn giới
sưu tầm cổ vật trong Nam ngoài Bắc mới nghe qua chứ chưa có bất kỳ ai sở
hữu… Bộ trang phục hiện có chiếc long bào của một vị vua vẫn là bí ẩn
và gây nhiều tranh cãi. “Dựa trên kích cỡ thì ứng với thân hình vua Hàm
Nghi” - Hoàng nhận định. Nhưng một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng,
đường thêu và huy hiệu gắn hai bên áo, khả năng là long bào của vua Khải
Định. Tại sao ở các phủ đệ ông hoàng, bà chúa và thậm chí trong các bảo
tàng ở cố đô Huế không có, nhưng người Vân Kiều sinh sống ở nơi rừng
thiêng nước độc lại lưu giữ một số lượng lớn trang phục cung đình như
vậy? Câu hỏi này đến nay chưa có chứng cứ khoa học cụ thể nhưng nhận
định ban đầu của giới nghiên cứu thì có thể những trang phục cung đình
ấy theo đoàn tùy tùng vua Hàm Nghi ra thành Tân Sở vào năm 1885 để ban
chiếu dụ Cần Vương chống Pháp.
Nghề chơi vô tiền khoáng hậu
Nhắc đến nhà nghiên cứu văn hóa Hồ
Tấn Phan, một đồng nghiệp trong làng báo ở Huế từng nói đùa mà thật
rằng: “Nếu một mai chẳng may ông Phan mất đi, loại bập bõm về văn hóa,
lịch sử như tụi mình chắc cũng chết theo, vì lúc đó biết ai mà hỏi?”.
Ông năm nay bước qua cái tuổi xưa nay hiếm, lưng còng cánh cung lại có
danh có phận đường hoàng, nhưng ông là nhà nghiên cứu có thể nói duy
nhất ở Huế mà các nhà báo có thể gặp bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm. Vả
lại, không chỉ trả lời những câu hỏi, giải đáp những thắc mắc, ông còn
sẵn sàng cùng các nhà báo đi thực tế, kể cả xuống biển. Đặc biệt, đối
với những vấn đề văn hóa, ông không nói thì thôi, chứ đã nói thì tới nơi
tới chốn và thường có những chủ kiến nhận định giật mình, đi liền với
những chứng cứ khoa học.
Căn nhà và sân vườn rộng hàng ngàn mét
vuông nằm ven đường Cao Bá Quát, TP Huế chỗ nào cũng chật chội, chất
đống những kiệu, lu, mái, bình vôi, hũ, lọ, chén bát... lành có, vỡ có.
Thấy tôi tròn mắt như bao người khác lần đầu tìm đến, ông cười và nói
nhỏ nhẹ: “Toàn đồ trục vớt từ sông Hương lên cả, tuổi ít cũng 200 - 300
năm, nhiều nhất cũng trên dưới 2.500 năm… Đẹp hay xấu, vỡ hay lành thì
mỗi hiện vật đều mang hơi thở cuộc sống gắn chặt với sông Hương. Con
người từ xưa và ở đâu cũng gắn với những dòng sông. Sự sống lướt trên
mặt nước, còn chìm sâu dưới đáy không chỉ có sự chết. Nếu bề mặt sông
Hương là một trang giấy thì những hiện vật lắng đọng dưới đáy sông chính
là những con chữ chứa đựng những thông tin về quá khứ”. Trong kho tàng
cổ vật ấy, người không biết coi đó không hơn bãi phế liệu. Nhưng người
tinh mắt, lành nghề thì hiểu được ngay cái giá để có những đồ vật này,
thầy giáo Hồ Tấn Phan mấy mươi năm về trước đành mang cái tiếng “mất
dạy” xin nghỉ hưu sớm và bỏ ra rất nhiều công sức, tiền bạc và phải cố
quên những thú vui thường ngày để lặn lội tìm mua “đồ vứt đi” ở khắp
hang cùng ngõ hẻm, từ làng quê đến thành thị… Trong số những hiện vật
khảo cổ của nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan có khoảng 1.000 hiện vật thuộc
giai đoạn văn hóa Sa Huỳnh rất quý hiếm, niên đại trên dưới 2.500 năm.
Bộ sưu tập ấy được một đội ngũ dân vạn đò không biết gì về chuyên môn
“khai quật”, trên một địa bàn rộng khắp các con sông quanh Huế, chủ yếu
là sông Hương, kéo dài suốt hơn 30 năm và vẫn còn tiếp diễn... Ông Phan
gọi đó là một sự kiện vô tiền khoáng hậu. Bởi xưa nay chưa có công trình
nào nói về trầm tích văn hóa dưới lòng sông Hương.
Bộ sưu tập
của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Tấn Phan gồm hàng ngàn hiện vật lớn nhỏ.
Từ những cái vò gốm cổ của những cư dân rất xưa, người Chăm hay của
những con tàu đến từ phương xa, cho đến đồ sứ, đồ sành, đất nung, cái
còn nguyên, cái chỉ là mảnh vỡ với muôn vàn dáng vóc, họa tiết, rồi có
cả xương cốt cả người lẫn động vật và các đồ kim loại của thời hiện đại,
có cả súng ống, tạc đạn... Tạm thời ông chia thành các loại chính: Đồ
Chăm qua các thời kỳ, đồ Việt từ thế kỷ 14 đến nay, đồ Trung Quốc. đồ
gốm, cụ thể là những lu, kiệu, mái, lọ, hũ, bình vôi, chén, đĩa... là
hình ảnh rất quen thuộc, không thể thiếu và gắn bó chặt chẽ với mỗi gia
đình người Việt từ hoàng tộc cho đến cùng đinh; từ sinh, lão, bệnh, tử
cho đến quan, hôn, tang, tế, ẩm thực...
Rất nhiều nhà nghiên cứu
văn hóa lịch sử đều thống nhất rằng, bộ sưu tập hiện vật của nhà nghiên
cứu văn hóa Hồ Tấn Phan phản ánh quá trình hình thành, tụ cư và tương
tác của nhiều lớp dân cư từ giai đoạn văn hóa Sa Huỳnh - Champa - Đại
Việt ở vùng lưu vực sông Hương và gợi mở nhiều vấn đề nghiên cứu mới cho
các nhà sử học, văn hóa học nghiên cứu vùng đất này, đặt vùng đất này
trong mối quan hệ với những vùng đất khác ở Việt Nam và trong khu vực
Đông Nam Á.
Theo: SGGP