MÔI TRƯỜNG + AN TOÀN LĐ
Bài 03: Tham luận về "Tiết liệm năng lượng - Giải pháp giúp các cơ sở công nghiệp nông thôn trong các làng nghề phát triển bền vững"
(Ngày đăng: 02/07/2020   Lượt xem: 531)
Langnghevietnam.vn - Hiện trạng sử dụng năng lượng và tầm quan trọng của sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại các làng nghề

 
Ảnh minh họa tại hội thảo 

Năng lượng và an ninh năng lượng luôn là một trong những trụ cột cần được quan tâm hàng đầu của quốc gia. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, các nguồn thủy điện quy mô lớn và trung bình hầu như đã được khai thác hết; Tiềm năng, trữ lượng dầu và khí đốt sẽ sớm suy giảm, năng lượng tái tạo chưa thể đáp ứng ngay với quy mô lớn và chung ta đã phải nhập than cho sản xuất điện thì việc thúc đẩy các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (TK&HQ) là giải pháp có tính kinh tế cao, cần được ưu tiên, đẩy mạnh thực hiện trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, trong đó có các cơ sở sản xuất công nghiệp trong các làng nghề của Việt Nam.
 
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các ngành công nghiệp Việt Nam có tiềm năng kỹ thuật về tiết kiệm năng lượng lớn, khả năng lên tới từ 25 - 40%. Xét về lợi ích tổng thể của xã hội, việc thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng cũng có những lợi thế lớn về mặt kinh tế với ước tính chi phí bỏ ra để tiết kiệm được 1 kWh điện chỉ bằng ¼ so với chi phí phải bỏ ra để sản xuất 1 kWh lượng điện năng tăng thêm.
 
Theo Hiệp hội làng nghề Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến cuối năm 2019, cả nước có trên 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó có khoảng gần 2.000 làng nghề truyền thống với 115 nghề truyền thống đã được công nhận, thu hút khoảng 11 triệu lao động tham gia.
Trong thời gian qua, các làng nghề đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như thu hút nguồn lực trong dân, tạo ra nguồn sản phẩm phong phú và đa dạng phục vụ nhu cầu của xã hội và xuất khẩu; giải quyết lao động; nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân nông thôn; bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa các vùng, miền; góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn đã cho thấy, các làng nghề trong cả nước phát triển còn chậm, hoạt động và quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, tự phát, chủ yếu là quy mô hộ gia đình. Đối với một số ngành sản xuất quy mô công nghiệp tại các làng nghề, vẫn còn một bộ phận các cơ sở sản xuất hiện đang sử dụng các thiết bị công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. Để làm ra sản phẩm, những doanh nghiệp này tiêu thụ năng lượng, nguyên nhiên vật liệu lớn, trong khi đó chất lượng sản phẩm làm ra không cao do chất lượng thiết bị thấp, dẫn tới sức cạnh tranh thấp.
 Ví dụ đối với ngành sản xuất giấy, đây là một trong những ngành có tiêu hao năng lượng lớn, chi phí năng lượng thường chiếm từ 20 đến 40% giá thành sản phẩm. Trong khi tại Việt Nam, suất tiêu hao năng lượng trên một đơn vị sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất giấy, đặc biệt là các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, luôn cao hơn từ 1,5 đến 2,0 lần so với sản phẩm cùng loại do các nước trong khu vực sản xuất. Các làng nghề sản xuất giấy như làng nghề Phong Khê tại Bắc Ninh cũng là một trong những điểm nóng về ô nhiễm môi trường do khói bụi, rác thải và ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động sản xuất giấy sử dụng công nghệ lạc hậu.
 Ngành thép là một trong những ngành công nghiệp sử dụng năng lượng, nhiên liệu ở quy mô lớn. Công nghệ luyện phôi thép hiện nay chủ yếu là lò điện, công suất thấp, lạc hậu nên suất tiêu hao năng lượng còn cao. Tại Bắc Ninh, theo thống kê của Sở Tài nguyên – Môi trường Bắc Ninh năm 2017, mỗi ngày làng nghề sản xuất sắt thép Châu Khê sử dụng khoảng 40.000 tấn than củi các loại và 18.000 m3 nước, thải ra môi trường 150 tấn rác thải công nghiệp (gồm các loại xỉ than, phế liệu, vẩy sắt) và trên dưới 1 tấn rác thải sinh hoạt, khoảng 15.000 m3 nước thải…
 Bên cạnh đó, đa phần các chủ cơ sở sản xuất công nghiệp trong các làng nghề còn chưa nhận thức được đúng mức ý nghĩa kinh tế, xã hội của việc sử dụng năng lượng TK&HQ. Tình trạng sử dụng lãng phí năng lượng kèm với đó là vấn đề ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề làm giảm sức cạnh tranh và tính bền vững của các doanh nghiệp làng nghề.
 Thưa các quý vị đại biểu,
 Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để đáp ứng nhu cầu năng lượng của sản xuất là một trong những giải pháp có lợi nhất giúp đối phó với việc tăng giá và giảm chi phí cho cho doanh nghiệp, giảm ô nhiễm môi trường và chống biến đổi khí hậu.
 Do nhu cầu tiêu thụ năng lượng lớn, việc sử dụng năng lượng TK&HQ trong các cơ sở công nghiệp nông thôn trong các làng nghề ở Việt Nam là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo phát triển bền vững các làng nghề, đóng góp vào mục tiêu chung của quốc gia về sử dụng năng lượng TK&HQ; giảm cường độ năng lượng của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới thiết bị trong sản xuất, thay thế dần các công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng tại các làng nghề truyền thống sẽ giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, giảm ô nhiễm môi trường, nâng cao an toàn và tăng thu nhập cho người lao động. Những công nghệ này cũng cho sản phẩm chất lượng tốt hơn, đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn, đa dạng hóa sản phẩm, góp phần bảo đảm tính thẩm mỹ và độ tinh xảo của sản phẩm, nhờ đó làm tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm của các làng nghề.
Bài học kinh nghiệm thành công của các làng nghề sản xuất gốm sứ Bát Tràng, Kim Lan tại Hà Nội đó là chuyển đổi công nghệ sản xuất từ lò than, lò gas truyền thống tiêu tốn nhiều năng lượng sang lò gas hiện đại, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Việc sử dụng công nghệ đốt gas LPG để nung sản phẩm gốm sứ giúp doanh nghiệp giảm tỷ lệ tiêu hao năng lượng trên một đơn vị sản phẩm tới 30%. Lợi nhuận cũng tăng gấp 2-3 lần so với công nghệ cũ, vì doanh nghiệp không chỉ tiết kiệm được chi phí năng lượng, mà công nghệ mới còn giúp tăng tỷ lệ sản phẩm ra lò đạt tiêu chuẩn chất lượng tới 95% so với mức 60%-70% trước kia và giảm phát thải các chất ô nhiễm không khí ra môi trường. Từ đó, không chỉ đời sống kinh tế của các hộ dân ngày càng nâng cao mà môi trường làng nghề cũng được cải thiện đáng kể.

Chính sách và khung pháp lý cho sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại các làng nghề 
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã chú trọng thúc đẩy tiết kiệm năng lượng, thông qua việc ban hành các chính sách và khung pháp lý quan trọng thúc đẩy sử dụng năng lượng TK&HQ trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề xã hội. Để thể chế hóa chính sách của Nhà nước, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được Quốc hội khóa 12 thông qua năm 2010 và có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2011. Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật bao gồm các Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư và các văn bản hướng dẫn của Bộ Công Thương về việc triển khai thực hiện Luật cũng đã và đang được hoàn thiện, kiện toàn góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các chương trình, hoạt động trong lĩnh vực sử dụng năng lượng TK&HQ.
 
Bộ Công Thương trong những năm gần đây cũng phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và ban hành các tiêu chí về sử dụng năng lượng hiệu quả trong một số ngành công nghiệp, quy định mức tiêu hao năng lượng trên một đơn vị sản phẩm, xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về công nghệ sản xuất sản phẩm. Cụ thể, đã ban hành các Thông tư quy định về định mức tiêu hao năng lượng trong các ngành công nghiệp sản xuất bia và nước giải khát, giấy, thép, nhựa, hóa chất, đường mía và chế biến thủy sản. Theo đó, các cơ sở sản xuất công nghiệp là đối tượng áp dụng của các Thông tư này có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện định mức tiêu hao năng lượng, kế hoạch cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng để đáp ứng định mức tiêu hao năng lượng theo lộ trình. Việc thực hiện các quy định này sẽ đem lại tác động to lớn trong việc thúc đẩy chuyển dịch thị trường sản phẩm theo hướng cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về sử dụng năng lượng TK&HQ.
 
Bên cạnh các chính sách, quy định pháp lý, Chính phủ cũng triển khai các chương trình hỗ trợ thực hiện sử dụng năng lượng TK&HQ cho các nhóm đối tượng khác nhau, trong đó có các cơ sở sản xuất công nghiệp, bao gồm: Chương trình Mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng TK&HQ giai đoạn 2006-2010 (VNEEP 1) và giai đoạn 2011-2015 (VNEEP 2); Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng TK&HQ giai đoạn 2019-2030 (VNEEP 3) phê duyệt tại Quyết định 280/QĐ-TTg của Chính phủ ngày 13/03/2019. Với Chương trình VNEEP3, các cơ sở công nghiệp được hỗ trợ kỹ thuật và tài chính nhằm triển khai các dự án đầu tư, sản xuất, kinh doanh về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với các hoạt động: sản xuất, chế tạo, cải tạo, chuyển đổi thị trường phương tiện, trang thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất, chiếu sáng công cộng, tiết kiệm năng lượng, v.v.. Các cơ sở sử dụng năng lượng được hỗ trợ thực hiện kiểm toán năng lượng và xây dựng hệ thống quản lý năng lượng, cải tiến quy trình công nghệ chuyển đổi nhiên liệu, ứng dụng năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, khí sinh học, năng lượng sinh khối…) trong các hộ gia đình và sử dụng năng lượng TK&HQ, thân thiện môi trường, giảm nhẹ biến đổi khí hậu và thực hiện các giải pháp TKNL khác. Chương trình VNEEP3 cũng có kế hoạch nghiên cứu xây dựng và thành lập thí điểm Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nhằm hỗ trợ triển khai các hoạt động sử dụng năng lượng TK&HQ tại Việt Nam, trong đó có các dự án đầu tư vào TKNL của các doanh nghiệp.

Một số kết quả điển hình về sử dụng năng lƣợng tiết kiệm và hiệu quả tại các làng nghề
 Thông qua một số chương trình, dự án vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật sử dụng nguồn vốn ODA không hoàn lại của các nhà tài trợ nước ngoài do Bộ Công Thương và một số Bộ ngành khác chủ trì triển khai thực hiện, nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong một số ngành công nghiệp cũng được tiếp cận với hỗ trợ kỹ thuật và đầu tư để thực hiện các dự án TKNL, thay thế dây chuyền công nghệ lạc hậu bằng dây chuyền công nghệ hiệu suất cao, sử dụng năng lượng hiệu quả. Có thể kể đến dự án “Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2010, với nguồn vốn tài trợ không hoàn lại của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF). Trong 5 năm triển khai, dự án đã hỗ trợ được 543 doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 5 ngành công nghiệp (sản xuất gạch, gốm sứ, giấy và bột giấy, dệt may và chế biến thực phẩm) thực hiện các dự án sử dụng năng lượng TK&HQ. Tổng mức năng lượng tiết kiệm được do thực hiện các dự án đạt 232.000 tấn dầu tương đương (TOE); tổng lượng phát thải khí nhà kính giảm được 944.000 tấn CO2; giảm trung bình 24,3 % chi phí năng lượng trên giá thành sản phẩm.
 
Một dự án tiêu biểu khác do Bộ Công Thương chủ trì thực hiện là Dự án “Chuyển hóa carbon thấp trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam” (Dự án LCEE) do Chính phủ Đan Mạch tài trợ được triển khai trong giai đoạn 2013-2017, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong các ngành gạch, gốm sứ và chế biến thực phẩm đầu tư vào TKNL thông qua cơ chế hỗ trợ tài chính của Chương trình Hỗ trợ Đầu tư xanh (GIF). Trong 63 dự án TKNL của các DNNVV được hỗ trợ tài chính từ Chương trình Hỗ trợ Đầu tư xanh có 30 dự án chuyển đổi từ lò than sang lò gas LPG của các hộ gia đình sản xuất gốm sứ tại làng nghề Kim Lan, Gia Lâm, Hà Nội. Sự thành công của các dự án TKNL tại Kim Lan đã tạo ra động lực thúc đẩy chuyển đổi công nghệ tại làng gốm Kim Lan, đem lại nguồn thu nhập cao và bền vững hơn cho các hộ sản xuất gốm sứ nơi đây nhờ lợi ích của giảm chi phí năng lượng, nâng cao hiệu suất và năng suất lao động, cải thiện chất lượng sản phẩm với mẫu mã sản phẩm đa dạng và tinh xảo hơn, đồng thời điều kiện môi trường cũng được cải thiện đáng kể, tạo ra diện mạo mới cho một làng nghề truyền thống. 63 dự án TKNL được hỗ trợ đầu tư đạt mức TKNL/giảm phát thải trung bình là 53,29% với tổng mức tiết kiệm năng lượng hàng năm đạt được tương đương hơn 416.000 MWh/năm và mức giảm phát thải khí nhà kính là hơn 231.000 tấn CO2 quy đổi/năm cao hơn so với mục tiêu đặt ra ban đầu của dự án LCEE.
 Đây là những ví dụ điển hình về các chương trình, dự án hỗ trợ của Chính phủ cho nhóm đối tượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các cơ sở sản xuất công nghiệp trong các làng nghề thực hiện các dự án sử dụng năng lượng TK&HQ.

Kết luận
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là chìa khóa cho bài toán phát triển bền vững của các cơ sở công nghiệp nông thôn trong các làng nghề Việt Nam. Thông qua áp dụng các công nghệ, thiết bị tiên tiến có hiệu suất sử dụng năng lượng cao, thân thiện với môi trường, các cơ sở sản xuất công nghiệp trong các làng nghề có thể sử dụng hiệu quả tài nguyên năng lượng trong hoạt động sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng trên một đơn vị sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyển dịch thị trường sang phân khúc sản phẩm có chất lượng cao hơn, gia tăng tính cạnh tranh trên thị trường, đồng thời giảm các tác động có hại đối với môi trường. Đây là hướng phát triển bền vững cho các cơ sở sản xuất công nghiệp trong các làng nghề của Việt Nam trong tương lai. Chính phủ Việt Nam nói chung và Bộ Công Thương nói riêng sẽ tiếp tục đồng hành và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp trong các làng nghề thực hiện lộ trình phát triển bền vững thông qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể nhằm thúc đẩy sử dụng năng lượng TK&HQ.
Xin chân thành cảm ơn!
Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững
Bộ Công Thương
                                                               Ban : TT- QHQT Hiệp hội làng nghề Việt Nam
 Đón đọc : Bài 4 - Nâng cao hiệu quả tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng thay thế để giảm chi phí , cải thiện môi trường làng nghề
Ý kiến bạn đọc 0 bình luận
 
Gửi bình luận của bạn
(Bấm vào đây để nhận mã)
Gửi thông tin Nhập lại
 
 
                                

Bản quyền thuộc về:  Công ty cp Giáo dục và Đào tạo Hoàng Gia Quốc Tế
S
Ince 31-08-2010

Ban truyền thông quan hệ quốc tế - Hiệp hội làng nghề Việt Nam     

Phụ trách biên tập : Nhà báo Lê Kim Hoa       

Địa chỉ: T 16 Hàn Việt Tower- 348 Kim Ngưu, Q Hai Bà Trưng, Hà Nội

Văn phòng 1: Tầng 2 Tòa nhà 14a Khu đô thị Định Công - Quận Hoàng Mai _ Hà Nội - văn phòng Lineup

Văn phòng 2: 489 Hoàng Quốc Việt tầng 03                                             

International royal education & training.,jsc                                                

Tel: 024.73046226  Hot line; 0929805137 Viber - zalo :0929805137 

Email: irecvietnam@gmail.com   : facebook: irecvietnam,  


 

12
Đang xem:
72.496.086
Tổng truy cập: