Khó chồng khó
Theo số liệu thống kê từ Cục Kiểm soát ô nhiễm – Tổng cục Môi trường
cho thấy công tác quản lý và một số hoạt đồng về bảo vệ môi trường làng
nghề đang tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc.
Đến nay tổ chức bộ máy, năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường các cấp đối với làng nghề về số lượng cán bộ tham gia tại các cấp
ở địa phương có khoảng 2.600 người. 95% cán bộ quản lý môi trường cấp
huyện không có bằng cấp chuyên môn trực tiếp về môi trường.
Còn đối với cấp xã, phường và thị trấn (cấp liên quan trực tiếp đến
công tác bảo vệ môi trường làng nghệ) thì cán bộ môi trường là cán bộ
địa phương kiêm nhiệm.
Việc đầu tư và sử dụng ngân sách cho công tác quản lý môi trường tại
các làng nghề cũng còn tồn tại bất cập. Trong 1% tổng chi ngân sách nhà
nước cho bảo vệ môi trường chỉ có một phần ít dành cho hoạt động bảo vệ
môi trường làng nghề.
Bên cạnh đó, một số mô hình thử nghiệm đã được triển khai đạt kết quả
tốt, nhưng việc duy trì tính bền vững và nhân rộng mô hình lại rất khó
khăn và bất cập. Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam đã triển khai cho vay
lãi suất ưu đãi đối với một số dự án và xử lý chất thải làng nghề tuy
nhiên còn nhiều hạn chế do nguồn vốn hạn hẹp.
Về công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật; giải
quyết khiến nại tốt cáo vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại các
làng nghề được giao cho nhiều ngành nhưng việc triển khai thực hiện lại
rất hạn chế do nhiều nguyên nhân (Đối tượng sản xuất nhỏ, lẻ; Sản xuất
mang nét đặc thù là quan hệ họ hàng; dòng tộc; làng xã; Nguồn nhân lực
và kinh phí hạn hẹp lại chưa thực sự ưu tiên đối với làng nghề..).
Việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật… làng nghềchủ yếu
ưu tiên tập trung vào các khu công nghiệp, các cơ sở công nghiệp lớn.
Hình thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, chưa xử lý hành chính cũng như áp
dụng các hình thức xử phạt bổ sung khác. Dẫn tới tạo điều kiện để một số
cơ sở công nghiệp hoạt động trong làng nghề.
Mặt khác, công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền phổ biến chính
sách pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các làng nghề đã được các
Bộ, ngành và địa phương quan tâm song việc thực hiện chưa thực sự hiệu
quả…
Đánh giá chung về công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường làng
nghề đã cho thấy tuy đạt được một số kết quả nhất định song thực trạng
chung về công tác quản lý môi trường làng nghề chưa có cơ chế, chính
sách chuyên biệt áp dụng cho làng nghề nên khi áp dụng vào khu vực sản
xuất làng nghề không khả thi, hiệu lực triển khai thấp.
Hầu hết các địa phương chưa chú trọng, ưu tiến đối với công tác quản
lý và bảo vệ môi trường làng nghề. Do vậy phần lớn các cơ sở trong làng
nghề không có các hồ sơ, thủ tục về môi trường, không có các hạng mục
công trình xử lý nước thải, khí thải đạt tiêu chuẩn, không nộp các khoản
phí, lệ phí về bảo vệ môi trường và khai thác tài nguyên, không đủ năng
lực tài chính để nộp phạt vi phạm hành chính, chây ỳ trong thi hành
quyết định xử lý vi phạm, có hành vi chống đối. Chính sách di dời các cơ
sở gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư đã được tổ chức thực hiện tuy nhiên
đến nay vẫn còn nhiều hạn chế…
Để môi trường làng nghề bền vững
Từ việc phân tích những kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và các
nguyên nhân của hạn chế cũng như từ việc thực thi pháp luật về bảo vệ
môi trường tại các làng nghề, TS Nguyễn Quang Hưng – Vụ Khoa học Công
nghệ và Môi trường Văn phòng Quốc hội đã đưa ra một số kiến nghị bảo vệ
môi trường làng nghề:
Trước tiên cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý hoạt động của các
khu kinh tế, làng nghề. Tăng cường giám sát việc phân bổ, quản lý, sử
dụng ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Đặc biệt
nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH…
Việc xây dựng chiến lược phát triển làng nghề phù hợp với chiến lược
phát triển đất nước, vùng miền, điều tra và đánh giá tổng thể việc phát
triển các làng nghề trong những năm qua để điều chỉnh quy hoạch phát
triển gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường ứng phó với
biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh, quốc phòng, phù hợp với điều kiện và
tình hình thực tế về khả năng đầu tư, năng lực quản lý, cơ sở hạ tầng…
của các khu kinh tế, làng nghề.
Cần hoàn thiện các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường tại các làng nghề. Tăng cường các biện pháp về tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề. Đặc biệt cần
đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến chính sách và giáo dục pháp luật về bảo
vệ môi trường đối với làng nghề. Mặt khác, cần quy hoạch làng nghề một
cách khoa học, phân loại làng nghề phải dựa vào các yếu tố làng nghề
truyền thống, không truyền thống, mức độ ô nhiễm môi trường, bảo tồn và
phát huy văn hóa dân tộc.
Thực tế cũng cho thấy, hiện nay việc quản lý làng nghề tại các địa
phương không thống nhất. Có địa phương giao quản lý làng nghề cho sở
NN&PTNT, có nơi là sở Công Thương, có địa phương giao cho Liên minh
hợp tác xã. Do đó cần có sự nghiên cứu mô hình quản lý làng nghề một
cách hiệu quả nhất. Đồng thời cần có chính sách về đầu tư phát triển phù
hợp, ban hành các chính sách cụ thể về hỗ trợ vốn và thuế, công nghệ
sản xuất, đào tạo nhân lực… Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của
làng nghề truyền thống, giảm dần hoạt động gia công, tăng cường xúc tiến
thương mại, thu hút du lịch… đối với các làng nghề.
Nhìn
nhận một cách khách quan thì không phải nghề nào, làng nghề nào cũng gây
ô nhiễm môi trường. Một số làng nghề đã đem lại đời sống cho nhân dân
khá cao, làng nghề xã khang trang, sạch đẹp nhưng ít gây ô nhiễm môi
trường và những làng nghề biết phát huy cao khả năng tay nghề của nghệ
nhân và ứng dụng khoa học vào các quy trình sản xuất cũng như quản lý.
Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn đang đặt ra đối với không ít
làng nghề là vấn đề ô nhiễm môi trường.
Theo: giaoducthoidai.vn