Quá trình đô thị hoá tương đối nhanh đã có
những ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến sự
cân bằng sinh thái: tài nguyên đất bị khai thác triệt để để xây dựng đô
thị, làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây ra úng ngập, cùng với
nhu cầu nước phục vụ sinh hoạt, dịch vụ, sản xuất ngày càng tăng làm
suy thoái nguồn tài nguyên nước...
Sau năm 1990 cùng
với những chuyển biến tích cực về mặt kinh tế - xã hội, mạng lưới đô thị
quốc gia đã được mở rộng và phát triển. Về số lượng đô thị, năm 1990 cả
nước mới có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ, đến năm 2000 đã tăng lên 649 đô
thị, và đến năm 2003 đã có 656 đô thị, trong đó có 4 thành phố loại I,
10 đô thị loại II, 13 đô thị loại III, 59 đô thị loại IV, và 570 đô thị
loại V.
Theo phân cấp quản lý, cả nước có 4 thành phố trực thuộc
Trung ương, 83 thành phố, thị xã thuộc tỉnh, còn lại là các thị trấn.
Trên địa bàn cả nước đã và đang hình thành khoảng 82 khu công nghiệp tập
trung, 22 đô thị mới và 18 khu kinh tế cửa khẩu. Đô thị hóa, công
nghiệp hóa ở nước ta diễn ra mạnh nhất ở 3 vùng trọng điểm phát triển
kinh tế - xã hội Bắc, Trung, Nam, ở vùng duyên hải, kể cả ở các đảo lớn
như Phú Quốc, Côn Đảo, Vân Đồn, Cát Bà,... Ví dụ như huyện đảo Phú Quốc
đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định là 1 trong 14 khu vực trọng điểm
phát triển du lịch trong toàn quốc, tỷ lệ dân số đô thị hiện nay dưới
40%, theo quy hoạch phát triển đến năm 2010 tỷ lệ dân số đô thị sẽ đạt
56 - 60%, đến năm 2020 sẽ là 80%, từ nay đến 2010 sẽ hình thành 2 khu
công nghiệp. Vì vậy tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa gây ô nhiễm
môi trường không những đối với môi trường trong đất liền mà còn có tác
động mạnh đối với môi trường vùng biển ven bờ.
Tăng trưởng dân
số đô thị từ 11,87 triệu người năm 1986 lên 18 triệu người năm 1999 và
khoảng 20 triệu người năm 2002, nâng tỷ lệ đô thị hóa từ 19,3% năm 1986
lên 25,3% năm 2002. Tuy vậy, đô thị hoá ở Việt Namcòn ở mức thấp so với
khu vực và trên thế giới. Ví dụ, tỷ lệ dân đô thị ở châu Á trung bình là
28%, châu Phi là 32%, Mỹ La Tinh là 68%. Tăng trưởng kinh tế hàng năm
của các đô thị ở ViệtNam trung bình từ 12 - 15%. Thu nhập đầu người tăng
nhanh, tại các đô thị lớn đạt khoảng 1.000USD/năm và tại các đô thị
trung bình đạt trên 500USD/năm. Tăng trưởng không gian đô thị cũng đạt
tỷ lệ đáng kể. Năm 1999, đất đô thị chỉ chiếm 0,2% diện tích đất tự
nhiên cả nước, đến năm 2000 đã tăng lên 0,35% và hiện nay (2003) con số
này đạt xấp xỉ 1%.
Chiến lược phát triển đô thị đến năm 2020
Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt "Định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển
đô thị đến năm 2020" trong Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23-1-1998,
trong đó xác định phương hướng xây dựng và phát triển các đô thị trên
địa bàn cả nước và các vùng đặc trưng
Mức tăng trưởng dân số dự báo
Năm 2010, dân số đô thị là 30,4 triệu người, chiếm 33% dân số cả nước.
Năm 2020, dân số đô thị là 46 triệu người, chiếm 45% dân số cả nước.
Nhu cầu sử dụng đất đô thị
Năm 2020, diện tích đất đô thị là 460.000ha, chiếm 1,4% diện tích đất tự nhiên cả nước, bình quân 100m2/người.
Tổ chức không gian hệ thống đô thị
Mạng
lưới đô thị cả nước được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị
trung tâm, gồm các thành phố trung tâm cấp quốc gia, cấp vùng, cấp
tỉnh. Các đô thị trung tâm các cấp được phân bố hợp lý trên 10 vùng đô
thị hoá đặc trưng của cả nước.
Các đô thị trung tâm lớn như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh... phải được tổ chức thành các chùm đô thị,
có vành đai xanh bảo vệ để hạn chế tối đa sự tập trung dân số, cơ sở
kinh tế và phá vỡ cân bằng sinh thái, tránh sự hình thành các siêu đô
thị.
Quy hoạch sử dụng đất đô thị đảm bảo các khu chức năng và cơ sở hạ tầng có quan hệ gắn bó.
Hình
thành bộ mặt kiến trúc hiện đại nhưng vẫn kế thừa, bảo vệ, tôn tạo và
giữ gìn các di sản lịch sử văn hoá, phát triển nền kiến trúc đậm đà bản
sắc dân tộc.
Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Ưu
tiên phát triển, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng các đô thị và các vùng kinh
tế trọng điểm, tạo tiền đề phát triển các đô thị và đô thị hoá nông
thôn.
Cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong các đô thị theo yêu cầu và mức độ phát triển của từng đô thị.
Bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn cân bằng sinh thái đô thị
Xây dựng và duy trì bộ khung bảo vệ thiên nhiên trên địa bàn cả nước.
Khai thác và sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên vào mục đích cải tạo đô thị.
Có biện pháp xử lý, tái sử dụng các chất thải sinh hoạt và sản xuất bằng các công nghệ thích hợp.
Quy hoạch đô thị chưa phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường
Quá
trình đô thị hoá tương đối nhanh đã có những ảnh hưởng đáng kể đến môi
trường và tài nguyên thiên nhiên, đến sự cân bằng sinh thái: tài nguyên
đất bị khai thác triệt để để xây dựng đô thị, làm giảm diện tích cây
xanh và mặt nước, gây ra úng ngập, cùng với nhu cầu nước phục vụ sinh
hoạt, dịch vụ, sản xuất ngày càng tăng làm suy thoái nguồn tài nguyên
nước; nhiều xí nghiệp, nhà máy gây ô nhiễm môi trường lớn trước đây nằm ở
ngoại thành, nay đã lọt vào giữa các khu dân cư đông đúc; mở rộng không
gian đô thị dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến vấn đề an
toàn lương thực quốc gia và đến đời sống của nhân dân ngoại thành; sản
xuất công nghiệp phát triển mạnh làm phát sinh một lượng lớn chất thải,
trong đó chất thải nguy hại ngày càng gia tăng; bùng nổ giao thông cơ
giới gây ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn nghiêm trọng; đô thị
hóa làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị, gây nên áp lực
đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, hình thành các khu nhà "ổ
chuột" và khu nghèo đô thị.
Một
trong những nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm môi trường tại các
đô thị là các vấn đề môi trường chưa được đề cập đầy đủ và quan tâm
đúng mức trong quy hoạch xây dựng đô thị. Ngoài việc quy hoạch sử dụng
đất và phân khu chức năng, các vấn đề cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, như
hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý rác, xử lý nước thải, giảm ô
nhiễm không khí và tiếng ồn,... chưa được chú ý đúng mức. Mặc dù việc
lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các đồ án quy hoạch đô thị
đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, nhưng công tác triển khai
thực hiện cho đến nay vẫn còn chậm, chưa hiệu quả và chưa chứng tỏ được
tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong quy hoạch xây dựng đô
thị.
Một nguyên nhân khác dẫn đến việc các đô thị phải chịu sức
ép môi trường ngày càng tăng là việc thiếu các biện pháp hữu hiệu trong
chỉ đạo và quản lý quy hoạch xây dựng. Tình trạng xây dựng lộn xộn tại
các đô thị lớn là một vấn đề bức xúc đòi hỏi những biện pháp quản lý cấp
bách và hiệu quả, nếu không cái giá phải trả cho việc giải quyết hậu
quả môi trường sẽ là vô cùng lớn. Công tác quản lý quy hoạch xây dựng là
bước tiếp theo và cụ thể hoá của công tác lập quy hoạch xây dựng đô
thị, một yếu tố then chốt trong việc xây dựng các đô thị bền vững và hoà
hợp với môi trường.
(còn nữa)
ĐM_GammaNT