Việc
đánh giá này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự nhìn nhận của thế giới đối
với sự nghiệp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt nam, trực
tiếp nhất là ảnh hưởng đến phát triển du lịch quốc tế của nước ta. Vì
vậy cần phải có sự phân tích đánh giá chính xác về hiện trạng môi trường
không khí của nước ta để cải chính đánh giá thiên lệch ở trên.
Là một chuyên gia đã nghiên cứu về
môi trường không khí ở nước ta gần nửa thế kỷ qua cho rằng sự đánh giá
và xếp hạng đó chỉ đúng một nửa,
bởi vì: (1) Trước hết cần phải phân biệt rõ 2 loại chất ô nhiễm trong
môi trường không khí, chúng có tính chất vật lý, tính chất hóa học và
tính chất sinh học khác nhau, đó là ô nhiễm các loại bụi ( bụi lơ lửng,
bụi mịn PM10, PM5, PM2,5) và ô nhiễm các loại khí, như là SO2, NO2 ,
CO, hơi xăng dầu v.v…. Ô nhiễm không khí rất độc hại đối với sức khỏe
con người, chủ yếu là gây ra các bệnh đường hô hấp, đặc biệt là gây ra
bệnh ung thư phổi; Tác động của các khí ô nhiễm đối với sức khỏe của con
người mạnh hơn tác động của các loại bụi. Số liệu quan trắc môi trường
nhiều năm qua chứng tỏ rằng thực tế môi trường không khí ở các đô thị
Việt nam chủ yếu là bị ô nhiễm rất nặng về bụi, còn xét về khí ô nhiễm
độc hại như SO2, NO2 , CO thì môi trường không khí ở Việt Nam chưa bị ô
nhiễm,
còn tốt hơn so với nhiều đô thị trên thế giới và trong khu vực, như là
Bắc Kinh, New Deli, Bangkok v.v…; (2) Thứ hai là ô nhiễm bụi nặng nề ở
nước ta chủ yếu xảy ra ở các thành phố lớn, đặc biệt là ở Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh và các thành phố loại 1, loại 2, như là Hải Phòng, Nam Định,
Việt Trì, Cần Thơ, Buôn Ma Thuật, v.v..., trừ TP Đà Nẵng ( năm 2011 TP
Đà Nẵng được Ban Thư Ký ASEAN công nhận là 1 trong 10 thành phố có không
khí sạch trong ASEAN /xem các hình 1, 2, 3/ ), chất lượng môi trường
không khí ở nhiều đô thị loại vừa và loại nhỏ của nước ta còn rất tốt.
Như
vậy môi trường không khí thực tế ở nước ta chứng tỏ sự đánh giá của
Trung tâm nghiên cứu Môi trường của trường Đại học Yale và Columbia ở
trên là chỉ đúng đối với ô nhiễm bụi chứ không phải là đúng với ô nhiễm
môi trường không khí, nói chung, của Việt Nam.
Chúng
ta thường nói rằng môi trường không khí ở các đô thị lớn ở nước ta bị ô
nhiễm bụi vào loại nhất nhì trên thế giới, nói như vậy không phải là
phủ định các nỗ lực và cố gắng trong công tác BVMT ở nước ta trong thời
gian qua. Bởi vì nhiều chuyên gia môi trường thế giới đã đưa ra ước
tính: khi tốc độ phát triển kinh tế tăng 2 lần, nếu không có các giải
pháp BVMT thích đáng thì mức độ ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên 4 lần.
Trong 20 năm qua, nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
rất mạnh mẽ, đặc biệt là hoạt động xây dựng và giao thông đô thị diễn ra
rất sôi động ở các đô thị, chúng thải ra rất nhiều chất ô nhiễm môi
trường không khí. Nhưng nhờ có đẩy mạnh hoạt động BVMT ở các đô thị, nên
mức độ ô nhiễm không khí đô thị ở nước ta chỉ tăng lên khoảng 20% sau
10 năm. Tuy vậy cũng thấy rằng ở nước ta sự quan tâm đối với môi trường
không khí chưa bằng sự quan tâm đối với môi trường nước.
Cần
phải nhấn mạnh rằng khi MT nước bị ô nhiễm, người ta có thể dùng biện
pháp lọc sạch nước, đun sôi nước khử trùng, trước khi uống nước. Nhưng
đối với ô nhiễm không khí thì con người phải thở hít trực tiếp vào cơ
thể con người và không phải dễ dàng tránh được tác hại nguy hiểm của ô
nhiễm không khí. Người ta có thể nhịn ăn 7 đến 10 ngày, nhịn uống 3-4
ngày vẫn không việc gì, nhưng chỉ nhịn thở 3-5 phút thì con người có thể
bị tử vong.
Theo
số liệu của Báo cáo môi trường Quốc gia 2010 (trang 149) cho thấy thiệt
hại kinh tế do gia tăng bệnh tật đường hô hấp ở Hà nôi tính trung bình
là 1.538 đồng/người/ngày, ở TP Hồ Chí Minh là 729 đồng/người/ngày ( ở Hà
nội có tỷ lệ bị bệnh đường hô hấp lớn hơn vì ô nhiễm không khí lớn hơn
kết hợp với sự thay đổi thời tiết mạnh hơn, đặc biệt là mùa đông và các
tháng đổi mùa ). Nếu tính chung cho 3 triệu dân nội thành Hà nội thì
mỗi ngày Hà nội bị thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí là 4 tỷ 614
triệu đồng.
Hình 1 dưới đây cho kết quả quan trắc môi trường của các Trạm Quan trắc &Phân tích Môi trường Quốc gia, từ năm 2004 đến 2011 : cho trị số bụi TSP của một số địa điểm của Hà nội. Đường kẻ ngang là trị số tối đa cho phép trung bình năm ( đường dưới) và trung bình ngày (đường trên). Xét hình 1 ta thấy hầu hết ở các điểm quan trắc đều bị ô nhiễm nặng về bụi TSP, nặng nhất là ở ngã Tư Kim Liên-Giải phóng , cao hơn trị số quy chuẩn quốc gia cho phép từ 3-5 lần,
mức ô nhiễm bụi cao tiếp theo là khu Mai Động, khu Thượng Đình, ô nhiễm
thấp hơn là khu dân cư Nam Thành Công; Cần phải nhấn mạnh rằng trước
năm 2000, khi mà Hà Nội chưa di chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm MT
nghiêm trọng thì ô nhiễm môi trường không khí ở Thượng Đình và Mai Động
nặng hơn. So sánh giữa 3 thành phố
(hình 2) thì ở Hà nội bị ô nhiễm bụi PM10 lớn nhất, TP Hồ Chí Minh –
thứ 2 và Đà nắng hầu như chưa bị ô nhiễm bụi PM10.
Hình 1. Nồng độ bụi TSP trung bình của trung bình 6 đợt quan trắc trong năm của một số địa điểm của TP Hà nội từ năm 2004-2011 (mg/m3)
Nói chung. môi trường không khí ở thủ đô Hà Nội hiện nay, đang bị ô nhiễm nặng nề về bụi TSP và bụi PM10, nồng độ bụi trung bình gấp 2 – 3,5
lần quy chuẩn cho phép (QCCP). Ở các khu vực đang diễn ra hoạt động xây
dựng hay sửa chữa đường xá thì nồng độ bụi gấp 5 - 7 lần, thậm chí có
chỗ trên 10 lần QCCP. Ô nhiễm không khí ở các đường phố, khi bị tắc nghẽn giao thông có thể tăng lên gấp 2-3 lần mức độ ô nhiễm so với khi bình thường.Ô
nhiễm các khí độc hại SO2, NO2, CO, Pb, CnHn còn có tính cục bộ, chủ
yếu xảy ra ở các nút giao thông lớn hoặc bên cạnh các cơ sở sản xuất có
đốt than, dầu.
Chúng tôi áp dụng phương pháp đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường không khí Hà Nội theo chỉ số chất lượng không khí của Mỹ (Air Quality Index) AQI = , trong đó Ci - nồng độ trung bình
chất ô nhiễm thực tế tại các điểm quan trắc i = 1, 2, 3, ...n trong
phạm vi nghiên cứu; Co - nồng độ chất ô nhiễm tối đa cho phép theo quy
chuẩn môi trường quốc gia.
Khi AQI ≤ 50: môi trường không khí có chất lượng tốt; 50 trung bình; 200 < AQI ≤ 300: môi trường không khí bị ô nhiễm nặng; và AQI > 300: môi trường không khí bị ô nhiễm rất nặng.
- Tính chung cho toàn Hà Nội theo từng chất ô nhiễm ta có: AQI(SO2) = 59,3; AQI (CO) = 30,5; AQI (NO2) = 31,5; AQI (bụi TSP) = 351,9 ( xem hình 3). Tính chung cho cả 4 loại chất ô nhiễm trên AQI0
= 155,4. Có nghĩa là xét tổng quát thì môi trường không khí Hà Nội
thuộc loại bị ô nhiễm, nhưng xét riêng từng chất ô nhiễm thì ô nhiễm bụi
TSP ở mức rất nặng (nồng độ bụi trung bình trong không khí của Hà nội gấp 3,5 lần trị số tối đa cho phép theo Quy chuấn quốc gia),
còn xét về khí CO và NO2 thì thuộc loại chất lượng môi trường tốt, xét
về khí SO2 thì thuộc loại không bị ô nhiễm và gần với mức môi trường tốt (xem hình 3).

Hình 2.Diễn biến nồng độ bụi PM10 trung bình năm trong không khí
xung quanh Hà nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng
Ghi chú: - Tp. Hồ Chí Minh: số liệu trung bình của 9 trạm tự động liên tục trong thành phố
- Hà Nội, Đà Nẵng: số liệu từ một trạm tự động liên tục tại 1 vị trí của mỗi thành phố
Nguồn:Báo cáo Môi trường Việt Nam 2010

Hình 3 : Chỉ số chất lượng không khí (AQI) của Hà nội,
tính riêng chotừng chất ô nhiễm các chất khí SO2, CO, NO2 và bụi TSP
Nguồn gây ra ô nhiễm chính đối với môi trường không khí đô thị ở nước ta
là do (1) Quy hoạch phát triển đô thị ở nước ta chưa xem xét đầy đủ đến
yêu cầu BVMT, như là tỷ lệ diện tích giao thông động cũng như giao
thông tĩnh không đủ, tỷ lệ diện tích cây xanh và mặt nước ngày càng bị
thu hẹp; (2) Hoạt động xây dựng, sửa chữa, cải tạo nhà cửa, đường xá,
cống rãnh … tràn lan, thiếu quản lý thống nhất và thiếu biện pháp BVMT;
(3) Phương tiện giao thông cơ giới phát triển quá nhanh, vượt quá khả
năng phục vụ của hệ thống giao thông đô thị; (4) Mặt đường và vỉa hè của
đô thị luôn luôn mất vệ sinh; (5) Ý thức giữ gìn VSMT đô thị của mọi
người còn kém.
Để
giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí đô thị nước ta, trứơc hết phải
bằng cách phối hợp mọi biện pháp (biện pháp quản lý, biện pháp kinh tế,
biện pháp khoa học và kỹ thuật), đồng thời tập trung vào việc khắc phục
và giảm thiểu các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường không khí đô thị chủ
yếu nêu trên; Thứ hai là giáo dục và nâng cao nhận thức về BVMT cho cộng
đồng (cộng đồng ở đây bao gồm từ người dân bình thường, các chủ cơ sở
sản xuất, chủ các phương tiện giao thông, đến các cán bộ quản lý, các
người lãnh đạo các tổ chức, các chính quyền các cấp của đô thị) để mọi
người tự giác tham gia BVMT và thẳng thắn đấu tranh chống lại các hành
vi vi phạm pháp luật về BVMT; Thứ ba là cơ quan quản lý môi trường phải
tăng cường công tác thanh tra , kiểm tra việc thực thi pháp luật về
BVMT, xử lý một cách nghiêm minh, công bằng, công khai, minh bạch và xử
phạt kinh tế một cách đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm luật
pháp BVMT; Thứ tư là cần phải ban hành ngay Luật Không khí Sạch như ở
rất nhiều nước trên thế giới đã có luật Không khí Sạch từ lâu rồi.
Ngoài
ra, cũng cần thấy rằng việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật
về BVMT ở nước được quan tâm tương đối lớn và không kém thua so với các
nước, nhưng việc thực thi pháp luật ở nước ta còn kém thua nhiều nước,
có lẽ chính là do nhận thức của cộng đồng nước ta còn kém và công tác
thanh tra kiểm tra của các cơ quan quản lý môi trường nước ta còn nhiều
yếu kém.