Giọng ông khê đặc vì
đã hát từ sáng sớm. Tiếng nhị não nề vẫn còn thắc thỏm trong tôi cho dù
đã hơn 30 năm trôi qua. Ánh mắt cậu bé rụt rè, long lanh với tiếng phách
trên tay. Những cung điệu quê xưa dịu dàng như lời mẹ ru bên lũy tre
làng…
Tiếng đàn tranh bên “Duối vợ - Duối chồng”
Mới đây về làng Đào Xá, xã Đông Lỗ, huyện Ứng
Hòa, Hà Nội, tôi ngỡ như lạc vào khu vườn âm thanh đồng quê. Vừa gần đến
tới chùa Viên Đình, tôi đã nghe thấy những tiếng đàn Tam Thập Lục ngọt
ngào, rộn rã vang lên. Cùng với đó là tiếng trẻ em hát ríu ran hòa tan
trong những chùm âm thanh như làn gió mát tràn về. Bỗng nhiên trong ký
ức tôi, hình ảnh hai cha con người hát xẩm ngày nào hiện lên... Ngỡ như
họ đang đi cùng tôi về ngôi làng âm nhạc này vậy. Cậu bé chạy quanh hai
cây duối xanh mướt những tán cây che bóng nắng. Đây là hai cây duối có
cả ngàn năm tuổi, bên ngôi chùa nhỏ Viên Đình. Dân làng gọi là cặp đôi
uyên ương “Duối vợ - Duối chồng”, như niềm hạnh phúc và an lành cho cả
làng suốt ngàn năm qua. Xưa mọi người họp chợ ở bên đường và bán những
cây đàn. Gió cánh đồng hòa tấu cùng tiếng sáo làng quê dào dạt, mênh
mang. Hai cha con ông đã dắt díu về đây tìm cho được cây nhị có tiếng
réo rắt và trong như mắt người vậy. Chợt cậu bé nhớ đến tiếng đàn Thạch
Sanh thuở nào đã cất lên với câu chuyện kỳ lạ trong hang động. Nói rồi
cậu bắt chước giọng hát của bố rằng: “Đàn kêu tích tịch tình tang. Ai đem công chúa dưới hang mang về”. Cứ
thế tôi đi trong ảo mộng, trên đường làng, bởi tiếng nhị ấy cứ nỉ non
như ngày nào... Bỗng có người đập mạnh vào vai tôi. Giật mình, tôi như
thoát khỏi giấc mơ âm thanh, trầm bổng bên cánh đồng làng Đào Xá. Nếu
không tôi đã sa xuống ruộng. Con trai nghệ nhân Đào Văn Soạn đón tôi
ngay bên tấm biển chỉ thẳng vào làng nghề. Nghệ nhân Đào Văn Soạn (78
tuổi) được coi là người có công phục dựng lại nghề làm đàn cho làng Đào
Xá, sau những năm tháng lận đận buồn tủi.
Dàn nhạc dân tộc.
Trò chuyện với lão nghệ nhân, tôi vỡ lẽ, xưa
cả làng Đào Xá đều làm nhạc cụ dân tộc, cung cấp cho khắp bàn dân thiên
hạ. Làng đã từng đưa hàng chục người thợ giỏi vào tận Huế chế tác những
cây đàn cho ban nhạc cung đình. Người dân làng mở cửa hiệu ở nhiều thành
phố lớn từ Hà Nội đến Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Hải
Phòng... Nếu tính từ trước năm 1945, dân làng sống chủ yếu bằng nghề làm
các loại đàn như sáo, nhị, tam thập lục, tranh, nguyệt, tỳ bà, bầu,
sáo, tiêu, đáy... Cả thảy gồm 15 loại đàn dân tộc. Ông kể, sau hòa bình
lập lại, xưởng sản xuất nhạc cụ đầu tiên ở Hà Nội toàn người làng Đào Xá
cả. Kể cả xí nghiệp sản xuất đàn ở Nam Định thời đó cũng phần lớn do
người Đào Xá hành nghề. Nói rồi, lão nghệ nhân đến bên tường lấy xuống
chiếc đàn Anto đưa cho tôi xem. Ông nói đây là chiếc đàn có tuổi đời 100
năm mà cha ông đã để lại, với những kỷ niệm thật khó quên. Mẫu đàn này
đánh dấu một thời kỳ làm ăn phát đạt của làng vào thập niên 40 của thế
kỷ trước. Thời Pháp thuộc, nhiều gia đình người Pháp thường đánh đàn
Anto, ca hát trong những ngày lễ và chủ nhật. Mỗi khi đàn hỏng là họ gọi
thợ mộc người Việt đến sửa phần gỗ hoặc căng lại mặt đàn. Bố ông (nghệ
nhân Đào Văn Hấn) là một trong những người khéo tay, giỏi nghề, một thời
theo cụ tổ nghề Đào Xuân Lan học việc. Ông nhớ, cụ Đào Xuân Lan đã được
mời làm hẳn một chiếc đàn mới, theo mẫu có sẵn. Nhiều ngày cụ đã phải
mổ xẻ từng bộ phận, ngẫm nghĩ từng góc cạnh để gia công những chi tiết
đầu tiên trên cần đàn. Với bàn tay khéo léo cộng với tính nhẫn nại, kỹ
lưỡng, chẳng bao lâu cụ Lan đã hoàn thành chiếc Anto đầu tiên, với những
chiếc khóa lên dây được mạ sáng bóng. Tiếng đàn vui tai rộn rã trong
đêm thử tiếng đàn đã thu hút mọi người.
Sau
này, ông Soạn được bố truyền lại từng bước đục đẽo, gọt giũa cây đàn từ
khi mới lên mười. Hai cha con ông lang thang đây đó với hòm đồ nghề đi
đóng đàn cho những phường hát. Cứ ở đâu cần là họ đến. Nhưng có lẽ, điều
quan trọng nhất của người thợ làm đàn là phải tinh thông về thẩm âm,
khi phải chỉnh tiếng mỗi khi lên khuôn đàn. Ông nhớ, không ngày nào ông
không bị kiểm tra chỉnh âm sắc mỗi khi lên dây đàn, theo bộ thanh mẫu.
Mãi tới dăm năm sau, ông mới thành thạo ở mọi khâu chế tác, đôi khi còn
được bố cử đi thẩm định chất lượng âm thanh cho các bạn hàng. Cuối cùng
phải là tiếng đàn với chất lượng âm thanh chuẩn mực, tốt nhất đến với
người dùng. Có thời gian nhiều nghệ sĩ của các đơn vị nghệ thuật, đoàn
ca nhạc đến tận nơi thửa đàn tại nhà ông. Còn các tay cung văn thì vô
kể. Cần vội làm đàn là nửa đêm cũng đến. Chờ vài hôm cũng được, họ sẵn
sàng ăn trực nằm chờ, cùng nhau chọn mẫu gỗ cho tiếng đàn được ưng ý.
Bởi trong các giá đồng, tiếng đàn phải ngọt thanh, réo rắt nâng cho
giọng hát thêm truyền cảm. Chính vì thế có năm, tháng nào gia đình ông
cũng xuất tới 100 chiếc đàn các loại, cả nhà làm không hết việc. Hiện,
nghệ nhân Đào Văn Soạn là người duy nhất được Nhà nước phong tặng danh
hiệu Nghệ nhân Ưu tú. Tính đến nay gia đình nghệ nhân có tới 4 đời làm
đàn dân tộc. Ông có công đào tạo hàng trăm thợ làm đàn, không những tại
địa phương, mà còn nhiều học trò ở các tỉnh lân cận.