May mắn thay, trong số
những người con sinh ra và lớn lên nơi đây lại có người mang nhiều tâm
huyết và khát khao phục hồi dòng tranh Đông Hồ đang bị mai một. Ông là
Nguyễn Đăng Chế (78 tuổi), nghệ nhân của làng tranh dân gian Đông Hồ.
Gian nan vực dậy tranh Đông Hồ
Nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế ở làng Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) sinh ra trong
một gia đình có truyền thống làm tranh lâu đời. Từ nhỏ, ông đã yêu thích
nghề làm tranh và được ông nội và cha truyền nghề lại. Khi đó, ông chỉ
phụ giúp cha sơn hồ, quét điệp trên giấy dó, học cách in tranh cho đúng
màu sắc, mang tranh ra sân phơi nắng. Tranh Đông Hồ gắn liền với tuổi
thơ của ông Chế và tình yêu với nghề làm tranh đã trở nên sâu đậm từ lúc
nào ông cũng không hay biết.
Tuy nhiên, làng Hồ lúc
bấy giờ lại rộ lên nghề làm vàng mã, nghề làm tranh gần như bị rơi vào
quên lãng. Xe máy, xe tải vào làng nườm nượp để chở hàng đi khắp nơi
buôn bán vàng mã. Người dân làng Hồ nhận thấy nghề này làm ăn khấm khá
hơn nghề làm tranh dân gian nên hầu như mọi người đều buôn bán và giàu
lên nhanh chóng. Khi đó, những bức tranh “gà lợn nét tươi trong” hay
“màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” được thay cho màu sắc nhộm nhoạm
xanh đỏ của giấy hàng mã.
Ông dạy học ở Đại học
Mỹ thuật Hà Nội hơn 30 năm, đến năm 1990 ông Nguyễn Đăng Chế về sống
cùng con cháu tại làng Hồ. Ba mươi năm xa quê cũng là quãng thời gian
dài để làng Hồ có nhiều thay đổi. Đau đáu với nỗi lo mai một nghề làm
tranh dân gian Đông Hồ, đầu năm 1991, ông đã quyết định dốc hết số tiền
dành dụm được trong quãng đời dạy học để vực dậy dòng tranh cổ.
Những bản khắc gỗ, thứ
được coi là kỷ niệm, thậm chí là đồ đổ bỏ của người dân trong làng thì
ông đi tìm mua lại. Không những thế, ông còn bỏ bao công sức, thời gian
để sưu tầm, tìm kiếm được hơn 100 bản khắc cổ với tuổi thọ hàng trăm
năm, hàng ngàn bản khắc mới và gần 200 mẫu tranh các loại, trong đó quý
nhất là bộ tranh Thạch Sanh có từ vài trăm năm trước.
Theo ông Chế, khó khăn
nhất là quãng thời gian 4 năm từ 1991 đến 1995. Những bức tranh dân gian
Đông Hồ ông làm ra mang đi bán cũng chỉ thoi thóp, tiền thu về cũng
không đủ để đầu tư mua nguyên vật liệu làm tranh. Lúc này ông tính
chuyện vừa làm tranh, vừa làm vàng mã rồi lấy tiền vàng mã để nuôi
tranh. Đây là cách “lấy ngắn nuôi dài” nhưng cũng phải nhanh chóng tìm
đầu ra, thị trường cho tranh Đông Hồ.
Cho đến đầu năm 1995,
ông Chế đã đem tranh ra Hà Nội bán cho khách du lịch nước ngoài. Ông đặt
một cửa hàng tại 17 phố Chân Cầm và còn nhờ cậy bạn bè trong ngành Mỹ
thuật giới thiệu, quảng bá tranh giúp ông. Không ngờ, hiệu quả đến rõ
rệt vì khách hàng đến với ông ngày một đông, nhất là các du khách nước
ngoài. Sau đó, ông mới quyết định sáng tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo dựa
trên chất liệu giấy dó cũng như cách làm truyền thống của dòng tranh
Đông Hồ để tạo nét độc đáo, mộc mạc để thu hút khách hàng cũng như những
người am hiểu và yêu nghệ thuật hội họa, nhất là tranh dân gian.
|
Mặc dù đã cao tuổi nhưng những nét vẽ của ông Chế trông vẫn rất sắc nét |
Nhờ sáng tạo nhưng
không làm mất đi bản sắc của dòng tranh nên tranh của ông đã được nhiều
người yêu thích và bán chạy. Ông cho biết, thời gian đó có ngày ông còn
bán được hơn 6.000 tấm tranh, lịch về các chủ đề, cảnh vật khác nhau như
đám cưới chuột, hứng dừa, đàn cò, cấy lúa, những người phụ nữ bắt
giặc... đã đem lại thu nhập đáng kể, thậm chí vào những ngày đông khách,
ông thu được 20-30 chục triệu đồng/ngày chỉ nhờ việc bán tranh.
Giờ đây, gia đình ông
đã làm chủ hơn 400 ván in với 180 loại tranh, 1 tuyển tập tranh dân gian
Đông Hồ gồm 100 đề tài khác nhau, 17 loại tranh Tứ quý, Tứ bình và mảng
tranh thờ cúng. Đặc biệt, ông đang sở hữu nhiều bộ in, bản khắc gỗ có
tuổi đời hơn 200 năm và được coi là bộ khắc độc nhất vô nhị ở Việt Nam.
|
Người con trai đầu của ông Nguyên Đăng Chế đã theo nghiệp cha từ nhỏ |
Tinh hoa tranh dân gian Đông Hồ
Từ lâu, chợ tranh làng
Hồ đã nổi tiếng khắp nơi bởi sự độc đáo, đa dạng của những tác phẩm
tranh của các nghệ nhân có tay nghề cao nên thu hút rất đông khách thập
phương đến mua tranh. Chợ tranh nơi đây nhộn nhịp, tấp nập nhất là vào
tháng Chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11, 16, 21 và 26 mỗi năm.
Chợ không chỉ thu hút
khách buôn mua tranh mà còn lôi cuốn cả giới nghiên cứu và những người
đam mê nghệ thuật tranh dân gian. Bởi thế, tự bao giờ đã xuất hiện và
được nhân dân lưu truyền hai câu thơ “Dù ai buôn bán trăm nghề/Nhớ đến
tháng Chạp thì về buôn tranh” để nói lên sự nhộn nhịp, trù phú của chợ
tranh làng Hồ.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế chia sẻ: “Tranh Đông Hồ được khắc trên ván gỗ, trước hết là một bản
nét, rồi tranh có bao nhiêu sắc thì thêm bấy nhiêu bản màu. Nền tranh là
giấy dó làm bằng vỏ cây dó, phết lên một lớp điệp một màu óng bạc từ
bột tán của vỏ sò. Loại giấy này được sản xuất theo lối thủ công đưa từ
làng Đông Cảo (Bắc Ninh) hay làng Bưởi ở Hà Nội về, sau đó mới cắt thành
nhiều kích cỡ khác nhau.
Để hoàn thiện một bức
tranh Đông Hồ cần rất nhiều thời gian như nhất định phải có một vài
người thợ thủ công chuyên làm mực vẽ và giấy. Các màu thường lấy từ chất
liệu thiên nhiên: màu đen lấy từ việc đốt lá tre để lấy than; màu xanh
được làm từ vỏ với lá tràm; màu vàng lại lấy từ hoa hòe; màu đỏ thắm lấy
từ thân, rễ của cây vang; màu sơn lấy từ sỏi núi; màu trắng là điệp…
Những nguyên liệu này được trộn lẫn với nhau, sau đó sẽ hoà với một
lượng bột nếp khi chuẩn bị đem in nhằm tạo một lớp hồ, làm cho giấy
tranh cứng hơn sau khi phơi khô.
Sau khi in thành tranh,
thật khó để phân biệt được điểm khác biệt khi chỉ nhìn vào màu sắc của
tranh để biết đâu là tranh lúc khô và lúc còn ướt bởi màu của chúng đều
tươi tắn như nhau. Các hình khối, mảng này đặt cạnh mảng kia có sự ăn ý
hài hoà một cách tự nhiên. Để hoàn thành một sản phẩm, người làm tranh
phải rất công phu, cẩn thận trong từng công đoạn: Sơn hồ lên giấy, phơi
giấy cho khô hồ, quét điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, lúc in
tranh phải in lần lượt từng lớp màu…”.
|
Bức tranh này được vẽ trên giấy điệp với các màu sắc được làm từ nguyên liệu thiên nhiên |
Ông Chế cho biết thêm,
việc dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau như nền màu
đỏ cho tranh đánh ghen; nền màu vàng, đỏ cho cảnh ấm áp, vui tươi tràn
ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày Tết, nền màu hồng nhạt cho tranh
làng quê thanh bình, nền màu xanh cho sự hi vọng, thư thái...
Đôi khi những bức tranh
Đông Hồ còn được nghệ nhân trang trí kèm theo những từ chỉ dẫn hoặc
những tứ thơ tình tứ, lãng mạn như trên bức tranh Hứng dừa “Trong như
ngọc, trắng như ngà/Đây trèo đấy hứng cho vừa lòng nhau”, còn trên tranh
Đánh ghen là “Thôi thôi nuốt giận làm lành/Chi điều sinh sự nhục mình,
nhục ta”. Mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho thấy vốn liếng văn hóa Việt
thuần khiết, trong sáng.
Không chỉ khôi phục lại
được dòng tranh mà bao nhiêu năm ông ấp ủ và gia đình ông, cả ba thế hệ
từ ông, con, cháu đang sống sung túc nhờ làm tranh. Cách đây ít năm,
ông Nguyễn Đăng Chế đã thành lập Cty TNHH Tranh dân gian Đông Hồ trên
diện tích 5.500 m2 chuyên khôi phục bản khắc cổ, sản xuất, dạy nghề cho
con em địa phương và giới thiệu sản phẩm tới du khách trong và ngoài
nước. Nhiều công ty đã đặt tranh số lượng lớn với ông để xuất khẩu sang
nước ngoài. Hiện bên cạnh thị trường trong nước ông Chế còn xuất khẩu
trực tiếp ra thị trường Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan…
Đối với những ai đã đến
với làng Hồ, đã được ngắm tranh Đông Hồ của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế
đều không thể quên những đường nét, sắc màu chân quê, đích thực Việt
Nam. Với những chất liệu nghệ thuật độc đáo, qua năng lực sáng tạo tài
hoa tranh Đông Hồ đã thăng hoa thành nghệ thuật tạo hình dân tộc.
Theo: baophapluat.vn