Langnghevietnam.vn - Từ năm 2005 đến nay Hiệp hội Làng
nghề Việt Nam đã tổ chức vinh
danh Các Danh hiệu Làng nghề Việt Nam 7 lần. Hiện nay, đã có gần 500
Nghệ nhân Làng nghề và Nghệ nhân Nguyễn Văn Khoan sinh năm 1940 ở xã Hải Phong,
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định - người
được xem là một trong những “báu vật nhân văn” của Làng nghề Việt Nam.Nghệ
nhân Nguyễn Văn Khoan khi ở tuổi 74 - 75, nhưng vẫn giữ được phong thái đĩnh đạc, mẫn
tiệp của một bậc cao niên đã nhiều năm gắn bó tâm huyết với lĩnh vực xây dựng
các công trình kiến trúc cổ. khi nói chuyện với chúng tôi, ông chậm rãi hồi
tưởng: “Nghề phục dựng và xây các công trình kiến trúc cổ vốn là nghề gia
truyền do cụ tổ Nguyễn Hữu Lễ, quê ở Trực Đông (Trực Ninh) truyền lại. Ngay từ
thuở tóc còn để chỏm, tôi đã theo chân ông nội đi xây dựng các công trình và
dần nhen nhóm, hun đúc trong mình ngọn lửa đam mê với công trình kiến trúc cổ.
Lúc đó tôi thường sử dụng đất xét đắp mẫu tượng, mẫu chùa và học vẽ. Ham mê đến
mức nhiều khi quên ăn, quên ngủ”. Đến năm 1965, ông nhập ngũ và giành được
không ít giải thưởng thiết kế sân khấu trong các kỳ hội diễn toàn
quân. Năm 1974, ông được Tổng cục Chính trị cử đi học mỹ thuật. Mặc dù chỉ được
học trong thời gian ngắn nhưng ông cũng định hình được hướng đi cho mình. Sau
khi xuất ngũ năm 1978, suốt 11 năm rong ruổi trên chiếc xe đạp cũ kỹ, niềm đam
mê cháy bỏng với kiến trúc cổ đã đưa ông đi khắp các ngõ ngách từ các tỉnh Hưng
Yên, Hà Tây đến Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang… để thăm quan các công trình
kiến trúc cổ còn lại. Ông dành rất nhiều thời gian sưu tầm sách vở,
tài liệu về nghệ thuật kiến trúc, lịch sử kiến trúc Việt cổ để nghiên cứu.
Những con giống, hoa, trái, phượng, rồng, mây, nước được cấu trúc trong các cấu
kiện như đầu đao, kèo, xà, cửa võng đình, chùa, cung điện mỗi thời kỳ đều thể
hiện rõ các quan điểm, quan niệm triết học sâu sắc về thiên nhiên, con người
với triết lý phương Đông “thiên, địa, nhân” rất súc tích bằng phương pháp tượng
hình. Mỗi ngôi đình làng, ngôi đền đều có mục đích tôn vinh công đức đối với
danh nhân hào kiệt. Đối với một ngôi chùa tâm linh hướng thiện của đạo Phật đều
có những cấu trúc, bố cục, nội dung, hình thức khác nhau. Đến tham quan các
công trình, ông đều cẩn thận ghi chép, ký họa lại tỉ mỉ từng chi tiết, hoa văn
trang trí đến bố cục khuôn viên. Không thể đếm hết những ngôi chùa cổ và các
pho mẫu tượng pháp, tứ linh: long, ly, quy, phượng, họa tiết hoa lá, trang trí
đã được ông mày mò vẽ lại, đắp và phục dựng thử. Chính những công trình kiến trúc
độc đáo là tư liệu quý giúp ông hệ thống, định hình được những đặc trưng kiến
trúc Việt Nam qua
các thời kỳ. Ví dụ như điêu khắc rồng thời Lý hoàn toàn khác với các
thời Trần, Mạc hay thời Nguyễn với những đặc trưng thân, vảy, móng, râu, mắt,
sừng… Đặc trưng kiến trúc mái đao thời Lý thường được bố trí theo hoạ tiết hoa,
lá, phù vân cách điệu thành mặt hổ phù cõng nhật, Phật tích; đến thời Nguyễn,
mái đao thường được bố trí là đầu long hồi. Kiến trúc chùa được phân loại cấu
trúc theo thể chữ. Chẳng hạn có chùa được bố cục theo kiểu chữ Đinh (như chữ
T), chữ Công (như chữ H nằm ngang), hoặc kiểu nội công ngoại quốc (bên trong là
chữ H nằm ngang và bên ngoài gồm các nhà bao bọc tạo nên một hình vuông hay
hình chữ nhật). Tất cả chuẩn mực của sự tinh hoa kiến trúc cổ đó đã in sâu vào
tiềm thức như hơi thở của ông được truyền tải sống động trên các bản vẽ thiết
kế.
Công trình tam quan Trung tâm Phật giáo Trúc Lâm
Thiên Trường (TP Nam Định).
Đến
nay, mọi công trình kiến trúc cổ từ kết cấu rường cột, mái ngói đến những chi
tiết nhỏ nhất như mái đao, đầu hồi, hoa lá trang trí đều được ông vẽ thiết kế
bằng tay. Nói đến đâu, đôi bàn tay ông thoăn thoắt vẽ phác ngay trên giấy để
giúp chúng tôi mường tượng rõ hơn. Ông Khoan cho biết: “Chỉ có vẽ bằng tay,
bằng bút chì mới truyền tải được hết vẻ đẹp cổ kính, mềm mại của các tích cổ
trong hoa văn kiến trúc của cha ông xưa. Đây là sự khác biệt với những thiết kế
kiến trúc hình khối hiện đại trên máy tính”. Từ thiết kế, các hoạ
tiết trang trí như rồng, phượng, hoa lá được ông in phác “truyền thần” trên
giấy vỏ bao ximăng và tiến hành đắp bằng hỗn hợp vôi, giấy, mật mía và xi măng
theo truyền thống cổ xưa. Ông kể, bức tượng điêu khắc đầu tiên mà ông đắp chính
là đôi tượng hộ pháp tại chùa Tống Xá, xã Yên Xá (Ý Yên); tiếp đó là tượng chùa
ở các xã Hải Minh, Hải Tân, Hải Đường. Dưới bàn tay tài hoa của ông, các tác
phẩm đều có thần, có hồn, sống động như thật và trở thành hình mẫu về điêu khắc
kiến trúc cổ cho nhiều nơi học tập. Tiếng lành đồn xa, công việc ngày càng
nhiều, từ làm một mình ông hướng dẫn mọi người trong gia đình và dòng họ giúp
sức. Hơn 50 năm gắn bó với công việc thiết kế, phục dựng và xây dựng các đình
chùa, đền, nhà thờ đến nay ông đã thực hiện gần 400 công trình kiến trúc các
loại tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, với nhiều công trình chùa
đền có quy mô lớn như khu di tích Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ở huyện Tiền
Hải (Thái Bình), cung Tứ phủ (Huế), chùa Bồng Lai thuộc quần thể khu di tích
chùa Keo (Thái Bình), Cổng tam quan Trung tâm Phật giáo Trúc Lâm Thiên Trường
(TP Nam Định), chùa Yên Quang (Ý Yên), Khánh Long tự ở Thị trấn Rạng Đông
(Nghĩa Hưng)… Thông thường một bản vẽ kiến trúc chùa cổ do ông thiết kế bao gồm
20 bản vẽ thể hiện, với 4 mặt cắt đứng (tiền, hậu và 2 hông), 4 mặt cắt trong
và mặt bằng móng cốt âm, mặt bằng cốt không và mặt bằng tầng 1, tầng 2 cùng các
hạng mục phụ trợ khác. Từ kinh nghiệm của mình, năm 2010 ông đã phục
dựng thành công bản vẽ kiến trúc ngôi chùa kiểu nội công ngoại quốc từ thế kỷ
XVIII được coi là đỉnh cao của truyền thống dựng chùa thờ Phật bằng kiến trúc
gỗ của người Việt trên đất Bắc, bao gồm 7 gian tiền đường, gian giữa là hậu
cung và 5 gian nhà phía sau thờ Tổ tiêu biểu như chùa Trăm Gian, chùa Bút Tháp,
chùa Keo, chùa Phổ Minh. Nhờ thế, ông đã được Cục di sản Văn hoá mời
sang Hồng Kông cùng với đoàn khảo sát thương nghiệp với mục đích quảng bá cho
kiến trúc chùa cổ Việt Nam.
Ông cũng giành được Cúp vàng Doanh nhân tiêu biểu 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội
với tác phẩm tri ân “Tứ linh quần tụ”, điêu khắc truyền thống bằng vôi, giấy.
Ông còn được Cty Cổ phần Thương mại và xây dựng 379 Bộ Quốc phòng mời tư vấn
thiết kế các mẫu bản vẽ về chùa chiền, hoạ tiết trang trí mái, xà, cột, cửa
chùa. Trong năm 2010, ông được Ban Chấp hành Trung ương Hiệp hội Làng nghề Việt
Nam phong tặng danh hiệu cao quý của làng nghề đó là danh hiệu Nghệ nhân Làng
nghề Việt Nam.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Khoan.
“Gìn
giữ những tinh hoa của cha ông xưa để lại là hành động thể hiện sự trân trọng,
biết ơn đối với những thế hệ cha ông đã sáng tạo ra giá trị cả về vật chất và
tinh thần cho thế hệ sau. Đồng thời phục dựng và xây mới các công trình kiến
trúc thờ tự, tôn giáo như đình, chùa còn quảng bá và giới thiệu cho thế giới
biết đến những tinh hoa kiến trúc nghệ thuật độc đáo của dân tộc ta”- Ông Khoan
tâm sự với chúng tôi.
Khi đã khá cao tuổi, nhưng ông vẫn trực tiếp vẽ, thiết kế và quản lý hơn
180 thợ, đồng thời là người thầy truyền dạy và chỉ bảo các kỹ năng về đắp, xây
dựng các công trình kiến trúc cổ. Anh Nguyễn Văn Khương, con trai của ông Khoan
cho biết, hiện tại đội thợ của anh gồm 50 người, trong đó có 7 thợ chuyên đắp,
vẽ và 4 thợ chuyên lợp mái ngói mũi đao với kinh nghiệm hơn 20 năm làm nghề.
Theo anh Khương, nghề xây dựng đền, chùa đòi hỏi người thợ phải luôn tâm niệm
đặt chữ TÂM lên hàng đầu chứ không phải lợi nhuận. Để đào tạo lớp thợ kế cận,
ngoài các buổi học lý thuyết do ông Khoan trực tiếp truyền dạy, các thợ trẻ còn
được chỉ bảo cặn kẽ qua từng công đoạn thực hành cụ thể trong quá trình tham
gia trừng tu, tôn tạo và xây dựng công trình kiến trúc cổ. Hiện tại đội thợ của
anh Khương đang thi công công trình lớn là chùa Đông Quý ở Tiền Hải (Thái
Bình), chùa Lộng ở thành phố Thái Bình, chùa Thượng Đồng ở Yên Tiến (Ý Yên),
nhà thờ tổ chùa Thao Chính huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Đến bất kỳ nơi nào gặp gỡ
ai có tâm học nghề này anh luôn sẵn sàng chỉ bảo tận tình. Cha con ông Khoan
luôn tâm niệm chia sẻ kinh nghiệm để ngày càng có nhiều người biết, tham gia
truyền bá, gìn giữ tinh hoa quê hương, dân tộc thì “tài sản” ấy sẽ luôn tồn tại
vững bền cho con cháu mai sau.
TRUNG ƯƠNG HIỆP HỘI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
THÔNG BÁO TIN BUỒN
|
Nghệ
nhân Nguyễn Văn Khoan, sinh năm 1940
Tạ thế
vào ngày 17 tháng 12 năm 2016 (tức
ngày 19 tháng 11 năm 2016 âm lịch). Hưởng thọ 77 tuổi.
Lễ
truy điệu và di quan vào ngày 19 tháng
11 năm 2016
An
táng tại nghĩa trang quê nhà.
|
Nguồn : Ban truyền thông - Quan hệ quốc tế HHLN