Làng
Chuông thuộc xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội - ngôi làng nhỏ
nằm bên dòng sông Đáy vốn nổi tiếng với nghề làm nón lá tự bao đời nay.
Nhưng, không phải người nào làng Chuông cũng trăn trở với nghề và giữ
nghề như cụ bà mê làm nón Lưu Thị Ngói.
Về
làng Chuông, chúng tôi có dịp được gặp nghệ nhân Lưu Thị Ngói (thôn
Quang Trung, xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội), 70 năm gắn bó
với nghề làm nón. Bà là một trong số ít người còn nắm giữ được những kĩ
thuật điêu luyện làm nón tại làng nón nổi tiếng này.
|
Nghệ nhân Lưu Thị Ngói. Ảnh: Đức Anh |
Tâm huyết với nghề
Sinh
ra trong gia đình có truyền thống làm nón lâu đời ở thôn Quang Trung,
ngay từ nhỏ, nghệ nhân Lưu Thị Ngói đã được cha mẹ hướng dẫn những công
đoạn để làm một chiếc nón. Ở tuổi 13 bà đã có những sản phẩm đầu tiên
được gia đình khen ngợi. Bà bảo, làm nón không khó, quan trọng là phải
thích làm, cần cù, chịu khó và thực sự say mê. Một chiếc nón trông nhỏ
bé như vậy nhưng để làm ra nó cũng phải qua rất nhiều công đoạn. Nhưng
trước hết phải tìm được nguồn nguyên liệu thích hợp.
Nón
làng Chuông được làm từ lá lụi Quảng Bình - một loại lá dài, gần giống
lá cọ. Để có một cái nón hoàn chỉnh, nghệ nhân cần thực hiện rất nhiều
công đoạn đòi hỏi sự công phu và khéo léo: vò lá, phơi lá, là lá, làm
khung, ngâm mo, lên vành, khâu nhôi... Một trong những công đoạn quyết
định độ dai của lá, độ bền của nón đó là phơi lá.
Lá khi
tươi có màu xanh, phơi qua nắng cho đến khi lá khô và chuyển sang màu
trắng bạc. Lá lụi sau khi được vò qua cát, được rũ sạch cát và mang đi
phơi.
Nếu lá
được phơi không đủ nắng hay “già” nắng đều ảnh hưởng đến chất lượng và
độ dai của lá, nón làm ra sẽ không bền hay màu không đẹp. Vậy nên, người
nghệ nhân làng Chuông rất tinh ý trong việc quan sát màu lá để biết lá
“đủ” nắng hay chưa.
Nghệ
nhân Lưu Thị Ngói cho biết, bình thường thì một bó lá phải vò chân trong
vòng 1 tiếng mới mềm được nhưng nếu quay lá bằng máy trước rồi thì chỉ
cần vò 20 phút thôi. Những chiếc khuôn nón được làm từ tre, gồm 8 gọng
(thanh tre lớn) chụm lại thành khung hình nón và được cố định bằng một
chiếc vòng cạp (thanh tre tròn nhỏ). Trên mỗi gọng lại có 16 khức nhỏ
(khức: các mấu nhỏ được khắc trên gọng) để lắp 16 chiếc vòng. Những
chiếc vòng này được làm từ cật nứa vót nhọn và đều vừa có độ bền chắc
vừa mềm mại được cố định bằng sợi dứa.
Tuy
nhiên, theo bà thì khâu khó nhất trong quá trình làm nón chính là là lá.
Chất lượng của chiếc nón sẽ phụ thuộc ở khâu này. Công đoạn là lá mất
rất nhiều công, từ việc chọn từng tàu lá sao cho đồng màu, sau đó sẽ
được hấp, sấy, phơi sương rồi mới đem là. Để từng tàu lá được phẳng, đẹp
và bóng, mịn, người thợ phải miệt mài là nhiều lần bên bếp lửa, dùng
hết sức nhấn mạnh lên lá.
Khi lá
nón được là xong, người thợ sẽ khéo léo lợp từng lá trên khung nón và
tỉ mẩn khâu lại từng mũi kim. Người khâu nón cũng được ví như người thợ
thêu. Bàn tay người thợ cầm kim đưa nhanh thoăn thoắt, mềm mại từng mũi
khâu, thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài. Khi chiếc nón được khâu
xong, người thợ hơ bằng hơi diêm sinh làm cho màu nón trở nên trắng muốt
và giúp nón không mốc.
Trăn trở giữ nghề
Làm
nghề đã khó nhưng giữ được nghề lại càng khó hơn, năm nay bà đã 83 tuổi
và gắn bó với nghề được 70 năm nhưng niềm mong mỏi lớn nhất của bà là
làm sao giữ được nghề của cha ông.
Bà tâm
sự, để làm hoàn thiện một chiếc nón mất khoảng 3 - 5 ngày nhưng tiền
lãi chỉ được khoảng 20 - 30.000 đồng. Mấy năm trước thì còn có nhiều
người hỏi mua chứ bây giờ người ta đội nón làm gì nữa. Các vùng nông
thôn ở ngoại thành Hà Nội đang dần đô thị hóa, nhà nào cũng có xe máy cả
mà chả ai lại đội nón đi xe máy bao giờ. Hiện tại, bọn trẻ con nó không
học làm nón nữa đâu, học nghề khác kiếm được nhiều tiền hơn chứ.
Nghề
làm nón dần mai một cũng vì nhiều lý do, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do
sản phẩm không có đầu ra. Việc giữ nghề truyền thống của quê hương đang
là vấn đề đặt ra không chỉ đối với làng Chuông mà còn với nhiều làng
nghề truyền thống khác trên cả nước. Thiết nghĩ, cần có sự hỗ trợ của
chính quyền, các tổ chức xã hội cũng như sự quảng bá vô cùng quý giá của
chính những người Việt có tâm để những làng nghề truyền thống không bị
mai một.
Theo: Dantri