Trong
cơ chế thị trường, nhiều làng nghề truyền thống đang mất dần vị thế và
có nguy cơ mai một. Dẫu vậy, vẫn còn những làng nghề ăn nên làm ra.
Trong đó có những nghệ nhân tâm huyết, bằng nhiều cách đã âm thầm giữ
nghề truyền thống như gìn giữ một nét văn hóa của quê hương.
Sống với nghề
Những ngày cuối năm, không
khí tại làng nghề mây tre đan Tịnh Ấn Tây (Sơn Tịnh) bỗng rộn ràng hẳn
lên. Ai ai cũng vội vã, tất bật. Chị Trương Thị Mến, một hộ chuyên làm
giỏ đựng cau cho biết: “Tôi phải dậy thật sớm để làm nhiều giỏ kịp giao
cho khách. Ngày thường tôi chỉ làm khoảng 100 giỏ, nhưng giáp Tết thì
phải làm gấp ba lần vì nhu cầu của khách hàng tăng cao”.
|
Nghệ nhân Đặng Văn Trịnh, người duy nhất còn “giữ lửa” cho làng gốm Mỹ Thiện (Bình Sơn). |
Tuy sản phẩm không còn đa
dạng và số hộ tham gia làm nghề không còn nhiều như trước, thế nhưng
làng nghề mây, tre đan vẫn đang sống khỏe. Các đơn đặt hàng không lúc
nào ngừng, vì thị trường tiêu thụ các mặt hàng này có ở khắp nơi, không
chỉ trong tỉnh mà còn xuất đi các tỉnh phía Nam, Tây Nguyên… Ông Nguyễn
Tấn Sinh, người đã có trên 20 năm gắn bó với nghề chia sẻ: “Nghề này
cũng sống được! Bao nhiêu việc từ làm nhà, mua xe, nuôi con ăn học...
đều nhờ nghề này hết. Những lúc đắt hàng chúng tôi phải làm ngày làm đêm
nhưng vẫn không đủ. Đặc biệt là tháng Chạp, hàng bán chạy dữ lắm!”.
Hiện tại một cái giỏ đựng cau, đựng trái cây có giá từ 19.000 – 24.000
đồng. Rọ heo có giá 25.000 – 50.000 đồng/cái… Sau khi trừ chi phí, người
dân làng nghề cũng lãi được 3.000 đồng/cái. Một ngày xuất 100 cái thì
thu về 300.000 đồng. Đó là chưa kể những ngày giáp Tết, số tiền kiếm
được có thể tăng lên gấp hai, gấp ba lần.
Không chỉ riêng làng nghề
mây, tre đan mà nhiều làng nghề khác như làng nghề quấn chổi đót, làng
nghề bánh tráng, làng nghề chế biến thủy hải sản… cũng giữ được nghề
truyền thống của mình. Mặc dù không đem lại lợi nhuận cao, nhưng những
làng nghề này đã trở thành chỗ dựa kinh tế cho nhiều gia đình. Bà Lương
Thị Hồng Anh, một hộ sản xuất bánh tráng ở xã Hành Trung (Nghĩa Hành)
cho biết: Nghề sản xuất bánh tráng có từ lâu lắm rồi. Qua bao thế hệ,
người dân nơi đây vẫn giữ nghề này. Dù không giàu có gì, nhưng nhờ nghề
này mà có tiền cho con cái ăn học, cuộc sống cũng đỡ vất vả hơn.
Lò Nồi trổ hoa
Lò Nồi là tên của một làng
nghề truyền thống chuyên làm các sản phẩm dân dụng bằng đất nung ở thôn
Trung Sơn, xã Phổ Khánh (Đức Phổ). Làng nghề này đã có từ lâu đời. Qua
bao thăng trầm, đôi lúc tưởng chừng như nghề này không thể gượng dậy
nổi, nhưng nhờ có những người thực sự yêu nghề cha ông để lại, đã dày
công tìm kiếm lối ra bằng nhiều giải pháp độc đáo, làm cho làng nghề
vươn lên, phát triển.
Trong cái nắng se lạnh của
ngày giáp Tết, chúng tôi đến thăm một gia đình làm gốm ở xóm Lò Nồi.
Vợ chồng ông Lê Văn Lấn đang nặn các loại sản phẩm bằng đất nung tại sân
nhà. Ông Lấn cho biết, lúc ông còn nhỏ, ở thôn Trung Sơn và thôn Vĩnh
An hầu như nhà nào cũng làm gốm. Thế nhưng từ sau năm 1985 sức mua đồ
gốm giảm dần nên phần lớn người dân đã chuyển sang làm nghề khác. Trong
thôn chỉ còn khoảng mươi gia đình trụ lại với nghề này. Riêng vợ chồng
ông theo nghề gốm đến nay được hơn 25 năm.
|
Vài đồ đồng tinh xảo được làm ra tại làng nghề đúc đồng Chú Tượng (Mộ Đức). Ảnh: T.L |
Trước kia, người dân trong
làng phải gánh từng gánh nồi, niêu, trách trả đi bán dạo nhiều nơi. Còn
bây giờ bạn hàng tìm đến tận nhà mua, mang đi tiêu thụ. Tuy nhiên giá
mua sỉ còn thấp. Mỗi lò bán được khoảng 7 triệu đồng, trừ hết các khoản
chi phí tính ra còn khoảng 150 ngàn đồng một ngày công.
Chưa thỏa mãn với nguồn
thu nhập mỏng manh dành cho người lao động cật lực, vất vả như vợ chồng
ông Lấn, tôi tìm đến gia đình có tiếng là thành đạt trong nghề này, đó
là ông Lê Minh Trung (51 tuổi) cũng ở thôn Trung Sơn.
Ông Trung cho biết: Trong
lúc nhiều người loay hoay tìm hướng chuyển nghề thì ông lại quyết định
tập trung đầu tư vào nghề gốm. Nhờ chịu khó suy nghĩ, ông thấy kiểu lò
xưa kia là lò ngửa lên trời, trên nắng dưới nóng, thợ làm chóng mệt,
thời gian nung lâu, tiêu hao nhiều nhiên liệu nên giá thành cao. Dựa vào
nguyên lý hoạt động của lò gạch, năm 2007 ông Trung đã cải tiến kiểu lò
cũ thành lò vòm bán nguyệt với 11 cửa, dễ đưa sản phẩm ra vào và chỉ
cần nung một lần là sản phẩm chín. Thời gian nung cũng được rút ngắn chỉ
còn 6 - 7 giờ đồng hồ, nung nội trong ngày là xong. Mỗi lò nung được
khoảng 3 ngàn sản phẩm các loại, nhiều gấp 3 lần so với nung trong lò
kiểu cũ.
|
Làng nghề mây tre đan ở Tịnh Ấn Tây (Sơn Tịnh) giữ được chỗ đứng trong khó khăn. |
Cách đây hơn 10 năm ông
Trung cũng là người đầu tiên ở xóm Lò Nồi ứng dụng thành công việc đưa
mô-tơ vào xay đất thành bột mịn thay khâu đập đất bằng tay. Ông Trung
còn cho biết, sắp tới ông sẽ tiếp tục cải tiến dây chuyền làm đất từ bột
ướt như bún, tạo luôn ra hình dạng sản phẩm liên tục 3 ca/ngày, giảm
bớt khâu lao động thủ công thì năng suất sẽ tăng lên hơn nữa. Ông còn
biết nắm bắt xu hướng thị trường, chế tạo ra nhiều loại sản phẩm độc
quyền ăn khách như khuôn nướng bánh mì xốp, bánh bông lan, chậu trồng
hoa lan kiểu Sông Bé, lu ghè hầm cám cho heo, bò ăn...
Ngoài các sản phẩm của gia
đình làm ra, ông Trung còn thu mua lại sản phẩm của những người khác
trong làng để tiêu thụ. Ngày trước bán được một gánh hàng không dễ. Còn
bây giờ, với ông Trung, do có sản phẩm độc quyền và chất lượng tốt,
tiếng lành đồn xa, nên khách hàng trong tỉnh và các tỉnh như Huế, Đà
Nẵng, Bình Định... đều tìm đến tận nhà mua sỉ. Nhờ làm và tiêu thụ sản
phẩm gốm, đất nung dân dụng thuận lợi mà kinh tế gia đình ông Trung ngày
càng phát triển. Ba người con của ông đều đã được học qua đại học. Đặc
biệt, Lê Phương Nam, con trai của ông, sau khi tốt nghiệp Cao đẳng công
nghệ thông tin đã tự nguyện trở về cùng với cha gầy dựng sự nghiệp bằng
nghề làm gốm từ đất nung. Chuyện giữ nghề của cha con người thợ gốm ở
thôn Trung Sơn là đóa hoa đẹp trên xứ sở Lò Nồi.
Nặng lòng nghệ nhân
Trong cái se lạnh của
những ngày cuối năm, người thợ gốm Đặng Văn Trịnh vẫn hì hục với công
việc của mình ở cái lò gốm duy nhất còn lại ở làng gốm Mỹ Thiện, thị
trấn Châu Ổ (Bình Sơn). “Tôi cố làm sớm để có đủ đồ gốm cho vô lò nung.
Một tháng mà không đốt lò là mình thấy buồn lắm!”, người thợ gốm tuổi đã
ngũ tuần với 35 năm theo đuổi nghề đã nói như vậy, trong khi hàng trăm
hộ của làng gốm trên 200 năm tuổi này đã không còn theo nghề của cha
ông.
Gian nan, vất vả, đã bao
lần ông Trịnh thao thức trước quyết định giữ lại nghề của làng mỗi khi
đối mặt với khó khăn, túng thiếu và nhìn những người trong làng lần lượt
giàu lên sau khi bỏ nghề gốm. Đặc biệt, cơn bão số 9 năm 2009 đã quật
nát lò nung gốm của ông, làm cho ông gần như bị trắng tay. Thế nhưng,
không chịu thua, ông Trịnh vay mượn vốn của các nơi tiếp tục giữ nghề.
Và rồi, ông cũng đã trụ được với nghề truyền thống của cha ông. Ông cho
biết, hàng gốm của ông làm ra bao năm nay được bạn hàng mua để bán ở
nhiều nơi như: Vào Bình Định, lên Tây Nguyên, ra đến Hội An, Đà Nẵng,
Huế và Quảng Trị. “Tuy cả làng Mỹ Thiện từ 22 năm nay chỉ còn một mình
tôi giữ nghề, nhưng các sản phẩm tôi bán ra thì ai cũng gọi là gốm Mỹ
Thiện. Cho nên, tuy mình còn khổ, nhưng cái tên làng nghề còn tồn tại là
mình hạnh phúc lắm rồi!”, ông Trịnh nói.
|
Truyền nghề. Ảnh: Bảo Anh |
Cũng giống như làng gốm Mỹ
Thiện, làng đúc Chú Tượng, xã Đức Hiệp (Mộ Đức), trải qua những biến
thiên của thời gian, làng nghề vẫn tồn tại trong bao thăng trầm. Hiện
tại, cả làng nghề với hàng trăm gia đình có nghề, nhưng vỏn vẹn chỉ còn 5
người giữ nghề. Đây là những nghệ nhân tâm huyết. Họ giữ nghề không chỉ
vì kế sinh nhai, mà còn vì không muốn để những giá trị văn hóa đặc
trưng của làng nghề trở thành “dấu xưa xe ngựa...”.
Trong số những nghệ nhân
ít ỏi “bám” nghề ấy, có cụ Nguyễn Thị (79 tuổi), nhưng hằng ngày vẫn
luôn gìn giữ “linh hồn” của làng nghề để các thế hệ con cháu nối tiếp.
Đặc biệt, đợt lũ lịch sử xảy ra hồi giữa tháng 11.2013 đã nhấn chìm và
cuốn trôi tất cả đồ nghề và nhiều tài sản. Thế nhưng, điều ấy vẫn không
làm cụ Nguyễn Thị nản lòng mà vẫn tiếp tục đầu tư, gắn bó với nghề. Đối
với cụ, "còn người là còn nghề!".
Giờ đây, tuy tuổi đã cao,
nhưng cụ vẫn say sưa với nghề, tiếp tục làm ra những sản phẩm tinh xảo
để lại cho đời sau. “Cả cuộc đời bám trụ với nghề truyền thống của cha
ông, nuôi mấy đứa con trưởng thành và vẫn giữ được tên tuổi của làng
nghề là tôi mãn nguyện lắm rồi”, lão nghệ nhân Nguyễn Thị tâm sự. Trong
lúc trò chuyện, đôi mắt của lão nghệ nhân ấy thỉnh thoảng ánh lên niềm
vui và ẩn hiện những nỗi niềm mong ước cho làng đúc Chú Tượng mãi còn
lưu truyền cho đến tận mai sau.
(Theo: Báo Quảng Ngãi)