Chưa làm tròn trách nhiệm với nghệ nhân
Nghề thủ công ở nước ta có truyền thống từ lâu đời, có nghề lịch sử
hàng trăm năm, nghìn năm như Gốm Chu Đậu, Bát Tràng; tơ lụa Vạn Phúc;
kim hoàn Châu Khê; đồng Định Công, Đồng Xâm, Ý Yên, Đại Bái; thêu Quất
Động; thổ cẩm Mai Châu; mây tre đan Phú Vinh,... Từ xa xưa, đã có những
nghệ nhân chế tác ra các sản phẩm truyền thống và không chỉ dừng ở đó,
còn đưa chính những tác phẩm của mình theo những chuyến tàu vượt biển
đi đến rất nhiều nước trên thế giới, trở thành "sứ giả" giao thương,
giúp thế giới hiểu được bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Bước vào thời
kỳ hội nhập sâu rộng, cũng chính các nghệ nhân làm nòng cốt phát triển
làng nghề, với những con số xuất khẩu ấn tượng tới hàng trăm triệu
đô-la một năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động ở nông
thôn. Nhiều làng nghề truyền thống có mức sống cao từ 3 đến 5 lần mức
sống của các làng nghề thuần nông. Chính họ đã góp phần vào công cuộc
xây dựng nông thôn mới. Tuy đã có những thời kỳ phát triển rực rỡ như
thế, nhưng lúc này, trước ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, các làng
nghề cũng bị ảnh hưởng chung. Hàng loạt khó khăn như thiếu vốn, thiếu
mặt bằng sản xuất, bí đầu ra, chưa có vùng nguyên liệu ổn định, ô nhiễm
môi trường đang khiến cho nhiều làng nghề đình đốn, khó khăn.
Nghệ nhân làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) chế tác mẫu gốm mới. Ảnh: TRANH GIANG
Đến nay mới chỉ có 37 nghệ nhân làng nghề truyền thống được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân và Nghệ nhân Ưu tú. |
Tuy nhiên, trong cái khó của làng nghề hôm nay, câu chuyện không đơn
giản đến từ các yếu tố khách quan mà từ chính nội tại của làng nghề. Nó
khiến bộc lộ rõ hơn sự bất cập trong chính sách phát triển làng nghề
trong suốt thời gian dài. Các nghệ nhân xưa cũng như nay thật sự là
những báu vật sống của làng nghề. Thế nhưng, nhiều năm qua, họ chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức. Từ trung ương, chưa có sự phân cấp rõ
ràng trong đánh giá tiêu chí, thống nhất các danh hiệu. Do đó, nhiều tổ
chức đứng ra phong danh hiệu, tạo ra sự nhiễu loạn trong việc phong
danh hiệu, có hơi hướng thương mại hóa danh hiệu. Có chuyên gia chỉ ra
rằng: Chồng chéo về quản lý cũng như các quy định sẽ dẫn đến việc phong
tặng không đúng, không trúng, dẫn đến tình trạng "vàng thau lẫn lộn",
điều đó đôi khi gây nên sự xúc phạm đối với những người tài năng thực
sự. Việc tuyển chọn ở địa phương không có đầu mối rõ ràng, nơi thì do
ngành công thương, nơi thì do ngành nông nghiệp và phát triển nông
thôn, vì thế đã bỏ sót rất nhiều nghệ nhân cao tuổi thực sự tài năng.
Hơn thế, ở một số địa phương, các cơ quan chức năng vô trách nhiệm
với nghệ nhân, không đánh giá đúng giá trị của họ. Cụ thể, "đất trăm
nghề" Hà Tây cũ (nay thuộc về Hà Nội) không được chú ý, các nghệ nhân
tiêu biểu xuất sắc không được đề xuất phong tặng. Nghệ nhân nổi tiếng
TP Hồ Chí Minh, Trần Thị Ý Lan đã từng làm tranh cát rất độc đáo để làm
quà tặng cho các nguyên thủ quốc gia dự Hội nghị APEC lại không có tên
trong danh sách tôn vinh. Nghệ nhân Lê Văn Vòng và một số nghệ nhân
khác ở làng Kiêu Kỵ (Gia Lâm) làm hồ sơ đã lâu nhưng không ai nhắc đến.
Một số nghệ nhân nổi tiếng như Nguyễn Thị Mãi (rượu Làng Vân), Đặng
Văn Tố (nặn tò he)... chưa được xem xét kịp thời và trong số đó nhiều
người đã qua đời, tài năng bị bỏ phí.
Đã vậy, khâu phong tặng nghệ nhân lại lộ rõ bất cập và nhiều điều
chưa hợp lý. Thí dụ, những nghệ nhân được phong tặng chưa có quyền lợi
gì về vật chất, tiền chế độ khi nhận bằng tôn vinh hoặc chậm, hoặc chưa
đến tay. Theo quy định thì sau khi được phong tặng danh hiệu, nghệ
nhân sẽ được tham gia các lớp tập huấn, hội chợ miễn phí, đồng thời có
nghĩa vụ truyền dạy nghề tại địa phương. Song, nhiều nghệ nhân đã được
phong mấy năm nhưng vẫn "chẳng có tương tác nào với xã hội". Việc tổ
chức phong tặng thường diễn ra im lìm ở làng, xã, không tạo ra sự kiện
chú ý, quan tâm trong dư luận xã hội. Chính việc chúng ta chưa làm tròn
trách nhiệm với đội ngũ những nghệ nhân nghề truyền thống với tư cách
là động lực phát triển của làng nghề, đã khiến họ mòn mỏi đi trong nỗ
lực giữ nghề và truyền nghề.
* Cả nước hiện có hơn 2.000 làng nghề được công nhận, trong đó hơn 400 làng nghề truyền thống với 53 nhóm nghề.
* Thủ đô Hà Nội mở rộng có khoảng 1.350 làng nghề, trong đó có 224 làng nghề truyền thống với hơn 47 nhóm nghề
|
"Bảo tồn" nghệ nhân - tại sao không?
Việc ứng xử tốt với nghệ nhân, ghi nhận, vinh danh họ là những việc
làm không thể chậm trễ. Họ là tài sản, là linh hồn của làng nghề. Vậy
mà, từ rất nhiều bất cập kể trên đã ảnh hướng đến các nghệ nhân, ảnh
hưởng lớn đến việc truyền dạy, tiếp nối, gìn giữ linh hồn của làng
nghề. Thời gian không chờ đợi ai, thất truyền không phải mối lo suông.
Nó hiện hữu trong nỗi trăn trở của nghệ nhân già. Nó cũng trĩu nặng
trong tâm tư của những người trẻ muốn theo nghề cha ông mà chưa tìm
được cơ hội để ở lại bám nghề, bám làng.
Muốn có sự tôn vinh xứng đáng nghệ nhân, thiết nghĩ nên giao trách
nhiệm cụ thể cho các đầu mối là bộ, ngành. Chẳng hạn, nếu liên quan đến
vấn đề sản xuất, kinh doanh, cần giao Bộ Công thương xây dựng tiêu chí
bình xét, phong tặng nghệ nhân. Còn nếu liên quan đến lĩnh vực văn hóa
xã hội, văn hóa phi vật thể, nên giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
nghiên cứu, xét tiêu chí phong tặng nghệ nhân. Mặt khác, Ủy ban T.Ư
MTTQ Việt Nam cần thể hiện vai trò rõ nét hơn trong việc thực hiện bình
xét tiêu chí, phong tặng các nghệ nhân thông qua cơ chế nghiên cứu
đóng góp và phản biện để bảo đảm không phong sai, không bỏ sót.
Chúng tôi có dịp sang Nhật Bản tham quan các làng nghề. Ở thời điểm
mới tiến hành công nghiệp hóa, làng nghề cũng rơi vào tình cảnh lớp trẻ
đua nhau bỏ ra thành phố, ở làng chỉ còn toàn người già và trẻ con.
Sau này, chính phủ Nhật Bản đã phát triển mô hình "bảo tồn" nghệ nhân,
quan tâm đến đời sống vật chất của nghệ nhân, ưu ái họ về mặt bảo hiểm.
Khi đời sống được nâng lên, họ dành thời gian truyền dạy, lo việc phát
triển nghề. Chỉ thời gian không lâu, các làng nghề đã phục hồi và phát
triển.
Một số nước ASEAN cũng đã thể hiện sự trân trọng đối với các nghệ
nhân như có cơ chế để trưng bày sản phẩm ở các phòng truyền thống, cơ
chế khuyến khích động viên như có chế độ chăm sóc sức khỏe định kỳ,
được khen tặng biểu dương từ cấp lãnh đạo nhà nước...
Thiết nghĩ, Việt Nam cũng cần học tập kinh nghiệm từ các nước và sớm
áp dụng vào thực tế. Nếu muốn khôi phục được làng nghề, cần làm tốt
công tác "bảo tồn" nghệ nhân. Thêm vào đó, việc đào tạo truyền dạy nghề
đang là công việc rất bức thiết không phải trong ngắn hạn. Cần phải có
tư duy chiến lược, dài hạn để không chỉ gìn giữ mà còn phát triển nghề
truyền thống, gia tài quý giá của ông cha, một bộ phận của di sản văn
hóa dân tộc. Xét đến cùng, những nghệ nhân chính là linh hồn của làng,
là cha đẻ của sản phẩm truyền thống. Làng và người gắn bó như một sự
tổng hòa, một sự cộng sinh, mỗi sự chia cắt đều là một nỗi đau có thể
xâm hại đến mạch chảy của nghề truyền thống trong nhịp sống đương đại.
Chỉ có thể giữ được làng nghề khi có được cách ứng xử đúng đắn với nghệ
nhân. Hãy để dòng máu nghệ nhân chảy trong huyết thống những thế hệ
yêu và sống chết với nghề truyền thống.
GS, TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam: Muộn còn hơn không
Muốn giữ nghề truyền thống, nhà nước, các cơ quan chức
năng cần quan tâm hơn đến các nghệ nhân thông qua việc khẩn trương
hoàn thiện các quy định về chế độ ưu đãi, công nhận danh hiệu nghệ nhân.
Lâu nay, có nhiều nghề truyền thống bị mai một đến mức không thể cứu
vãn vì thiếu cơ chế. Cần hành động thà muộn còn hơn không!
|
Nghệ nhân Nguyễn Văn Trung, Chủ nhiệm CLB Nghệ nhân làng nghề Phú Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội): Thiếu sự tương tác
Xây dựng các chính sách hỗ trợ nghệ nhân là rất cần
thiết, cần đặc biệt ưu tiên cho những nghệ nhân ở các làng nghề có
tiềm năng. Từ nhiều năm qua, việc tương tác giữa các nghệ nhân và cơ
quan chức năng, cũng như cơ hội giao lưu giữa các cơ sở làng nghề
chưa được quan tâm nhiều.
|
Ông Vũ Mạnh Hải, Chủ tịch Hội Nghệ nhân, thợ giỏi Hà Nội: Đừng vinh danh rồi để đấy
Người nghệ nhân không chỉ xứng đáng được vinh danh
nghệ nhân, mà còn cần được quan tâm thực chất hơn nữa. Chúng tôi đang
kiến nghị các cơ quan chức năng nên hỗ trợ nghệ nhân về bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội.
|